BÀI BÀO CHỮA CHO PHẠM CÔNG DANH TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM TP. HCM

Kính thưa Hội đồng xét xử,

Kính thưa hai vị đại diện Viện kiểm sát và Quý luật sư đồng nghiệp,

 

Tôi, luật sư Nguyễn Văn Trung thuộc Đoàn Luật sư TP.HCM cùng với 3 đồng nghiệp đảm nhận bào chữa cho Bị cáo Phạm Công Danh, bị VKSND tối cao truy tố và TAND TP.HCM đưa ra xét xử về 2 tội danh “cố ý làm trái quy định của Nhà Nước về quản lý kính tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” theo khoản 3 Điều 165 và khoản 3 Điều 179 Bộ Luật Hình sự. Tiếp theo phần bào chữa của Luật sư Phan Trung Hoài, tôi xin trình bày ý kiến bào chữa của tôi như sau:

 

Lời đầu tiên phải nói là tôi hết sức khâm phục Cơ quan CSĐT-Bộ CA và VKSND.TC đã tập trung công sức, vất vả gần 2 năm trời, trong suốt quá trình khởi tố, xác minh thu thập chứng cứ, với Bản kết luận điều tra lên đến 222 trang kèm theo 9 phụ lục và Bản cáo trạng dày 123 trang kèm theo 7 phụ lục dày 13 trang, truy tố 36 bị can ra trước vành móng ngựa với 2 tội danh nêu trên.

Ban chỉ đạo TW về Phòng chống tham nhũng xác định đây là “vụ án trọng điểm”; báo chí, công luận gọi đây là “Đại án Phạm Công Danh” quy kết Phạm Công Danh phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, đã gây thiệt hại lớn nhất từ trước đến nay với số tiền lên đến 9.000 tỷ đồng cho Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB)!

Thực tế, qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và nghe xét hỏi công khai tại phiên tòa suốt mấy tuần qua, tôi hết sức băn khoăn, trăn trở trước số phận không chỉ của Phạm Công Danh, mà là đối với tất cả 36 bị cáo đang phải đứng trước vành móng ngựa hôm nay. Vì vậy, với tất cả trách nhiệm và lương tâm của người luật sư, tôi cố gắng bằng tất cả khả năng của mình thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự là “sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo”, với mong muốn duy nhất là góp phần “xác định sự thật khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo” theo quy định tại Điều 10 Bộ Luật Tố tụng hình sự, để Hội đồng xét xử có thêm căn cứ ra một phán quyết hết sức công minh, thấu tình đạt lý.

Trước hết, đây có phải là đại án tham nhũng gây thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam 9.000 tỷ đồng không? Nội dung  Kết luận điều tra, Cáo trạng và kết quả xét hỏi công khai tại phiên tòa cho thấy không hề có hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hay lạm quyền… quy định tại chương XXI Mục A-Các tội phạm về tham nhũng trong Bộ Luật Hình sự.

Thứ đến, có phải bị cáo Phạm Công Danh đã gây thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam số tiền 9.000 tỷ không? Về việc này, LS Phan Trung Hoài đã trình bày cụ thể liên quan đến quy kết thiệt hại 7.000 tỷ trong phần tội danh “Cố ý làm trái…”. Về phần mình, tôi sẽ trình bày cụ thể sau trong phần nội dung vụ án. Ở đây, tôi chỉ nêu một số tình tiết để minh chứng: Tháng 6/2012 khi Phạm Công Danh mới mò mẫm tìm hiểu Ngân hàng TMCP Đại Tín thì thực trạng Ngân hàng theo Kết luận thanh tra xác định đến 29/02/2012 vốn chủ sở hữu đã bị âm 2.854 tỷ đồng, lỗ lũy kế 6.061 tỷ đồng gần gấp 2 lần vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trên báo cáo tài chính năm 2011, luôn có nguy cơ đổ vỡ, đang trên bờ vực phá sản. Đến sau ngày Đại hội cổ đông 07/02/2013, Phạm Công Danh mới chính thức bước chân vào Ngân hàng Đại Tín, thì theo Cáo trạng thực trạng ngân hàng còn tệ hại hơn: theo Báo cáo tài chính VNCB (đã được kiểm toán) thì lỗ lũy kế đã tăng lên 8.765,835 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm 5.711,1 tỷ đồng. Nghị định 57/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 về chế độ tài chính của tổ chức tín dụng, tại Điều 5 quy định: “giá trị thực của vốn điều lệ được xác định bằng vốn điều lệ thực góp cộng lợi nhuận chưa phân phối hoặc trừ đi lỗ chưa xử lý”. Như vậy, tại thời điểm cuối năm 2012, VNCB chẳng những mất vốn điều lệ mà giá trị cổ phần VNCB còn bị âm gần 20.000 đồng/cổ phần! Trong tình trạng như vậy, đáng lý ra chỉ mua 0 đồng/cổ phần, thế mà Phạm Công Danh và tập Đoàn Thiên Thanh đã cả gan dám mua lại Ngân hàng Đại Tín với giá 4.484,61 tỷ đồng (thực tế đã chi trả 3.600 tỷ đồng), đồng thời ra sức huy động toàn bộ vốn liếng, tài sản của cá nhân và của tập đoàn Thiên Thanh, phải vay nóng, vay lạnh đổ thêm vào Ngân hàng Đại Tín gần 10.000tỷ đồng để bảo đảm thanh khoản và duy trì hoạt động của 22 Chi nhánh khắp cả nước với hơn một ngàn cán bộ, nhân viên của Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam. Đau xót thay, chỉ hơn hai năm sau, ngày 05/3/2015 Ngân hàng Nhà nước mua bắt buộc VNCB với giá 0đồng/cổ phần, đồng thời còn kế thừa toàn bộ quyền đòi nợ của VNCB, quản lý toàn bộ tài sản của Tập đoàn Thiên Thanh đang thế chấp hợp pháp tại VNCB để thu hồi nợ 4.700 tỷ đồng! Chúng tôi được biết đến tháng 7/2016, tức là chỉ hơn một năm sau ngày NHNN mua 0đồng/cổ phần, NHNN đã công nhận Ngân hàng TMTNHHMTV Xây dựng Việt Nam (CB) có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh trong kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai theo Điều 56 Luật Kinh doanh Bất động sản! Đúng là phép mầu! Phải chi phép mầu này được NHNN ra tay thực hiện ngay từ cuối năm 2012, sau khi có Kết luận Thanh tra, thì vụ án Phạm Công Danh đã không xảy ra, và những người đứng trước vành móng ngựa hôm nay, nếu có, cũng không phải 36 bị cáo này!

Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam VNCB là do Tập đoàn Thiên Thanh (Phạm Công Danh đại diện) làm chủ sở hữu. Hoạt động của Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của Tổ Giám sát Ngân hàng Nhà Nước, tài sản của Tập đoàn Thiên Thanh đưa vào Ngân hàng và các tài sản thế chấp khác vẫn còn nguyên vẹn đó. Vậy, thì căn cứ vào đâu để nói Phạm Công Danh gây thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam 9.000 tỷ đồng? Mà nếu Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam bị thiệt hại thì Tập đoàn Thiên Thanh và Phạm Công Danh mới chính là người bị thiệt hại đầu tiên!

I/-VỀ TỐ TỤNG:

Trong phần thủ tục mở đầu phiên tòa, đại diện VKSND TP. HCM và Chủ tọa phiên tòa đều cho rằng việc cơ quan điều tra căn cứ Điều 117 Bộ Luật tố tụng hình sự tách các hành vi và sự việc để tiếp tục điều tra là đúng, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bị cáo bị truy tố.

Trong phần xét hỏi công khai và trước khi đi vào phần tranh luận, Chủ tọa phiên tòa nhiều lần căn cứ Điều 196 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định về giới hạn của việc xét xử, luôn nhắc nhở các bị cáo, luật sư và cả đại diện Viện Kiểm sát không được đề cập đến các hành vi, vụ việc đã được cơ quan điều tra tách ra, cáo trạng không đề cập.

 Về việc này chúng tôi xin có ý kiến như sau:

       -Khoản 2 Điều 117 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định: “Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết khi không hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án”.

       -Điều 10 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.”.

       -Điều 66 khoản 2 quy định: “Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và Hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả tình tiết vụ án”.

       Từ các quy định nêu trên cho thấy việc cơ quan điều tra tách ra để điều tra tiếp các hành vi và sự việc nêu tại phần B mục I điểm 5 (trang 213) Bản Kết luận điều tra rõ ràng đã ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án một cách khách quan toàn diện và đầy đủ, ảnh hưởng đến việc xác định đánh giá chứng cứ, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của các bị cáo. Bởi lẽ, cùng một hành vi,cùng một nguyên nhân, động cơ, mục đích xảy ra trong cùng thời gian, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng tách ra xử bằng nhiều vụ án thì tránh sao khỏi các bị cáo bị án chồng lên án

-Điều 196 Bộ Luật TTHS quy định: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố”.

Chúng tôi hiểu quy định này là căn cứ nguyên tắc “có lợi cho bị cáo”, Tòa án vẫn phải bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ theo Điều 10 và Điều 66 khoản 2, chứ không có nghĩa hạn chế những người tham gia tố tụng không được đề cập đến những tình tiết của vụ án, mặc dù đã được tách ra hoặc không nêu trong cáo trạng. Thậm chí nếu phát hiện chứng cứ mới có lợi cho bị cáo, luật sư cũng có quyền xuất trình giao nộp cho Tòa án. Trong phần luận tội ngày hôm qua, đại diện VKS đã đề nghị khởi tố hàng loạt người mà  KLĐT và Cáo trạng đã  không xem xét trách nhiệm hình sự hoặc tách ra trong vụ án khác. Ngoài ra còn có rất nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ mà ls Phan Trung Hoài đã nêu và tôi sẽ tiếp tục bổ sung ở phần sau. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 179 Bộ Luật TTHS quy định: “Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong trường hợp: “Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung từ phiên tòa (điểm a), khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội mới hoặc có đồng phạm (điểm b)”. Chúng tôi nhận thấy cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ sung thì mới đáp ứng được các đề nghị của đại diện VKS và mới xác định được sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, nhằm xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Do đó, căn cứ điểm a khoản 3 Điều 58 quy định nghĩa vụ người bào chữa và Điều 218 Bộ Luật TTHS, kính đề nghị Chủ tọa phiên tòa tạo điều kiện cho luật sư chúng tôi tranh luận, trình bày hết ý kiến của mình, miễn là các ý kiến đó liên quan đến vụ án.

II/-VỀ HÀNH VI VÀ TỘI DANH: “Vi phạm quy định cho vay….”

Theo phân công trong nhóm luật sư chúng tôi bào chữa cho bị cáo Phạm Công Danh, Ls Phan Trung Hoài bào chữa phần tội danh “cố ý làm trái…”, tôi bào chữa phần tội danh “vi phạm quy định cho vay…”, bổ sung những vấn đề khác nếu thấy cần thiết và có kiến nghị sau cùng. Đối với các hành vi mà Cáo trạng (trang 62) quy buộc Phạm Công Danh vi phạm các quy định cho vay, được đại diện VKS nhắc lại ở phần luận tội, chúng tôi xin có ý kiến như sau:

1/-Vi phạm Điều 126 Luật các TCTD:

Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho khách hàng trên cơ sở bảo đảm của đối tượng quy định tại khoản 1 điều này (trong đó có thành viên HĐQT…)

Các Công ty Hương Việt, Quốc Thắng, Nhất Nhật Minh, Toàn Tâm… đều là các pháp nhân độc lập. Các Công ty này dùng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thuộc Dự án khu phức hợp Dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng TP. Đà Nẵng, để đảm bảo cho các khoản vay. Tài sản này không phải thuộc quyền sở hữu cá nhân Phạm Công Danh là thành viện HĐQT Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam, nên không thể quy kết Phạm Công Danh bảo lãnh cho các khoản vay này. Vì vậy, Phạm Công Danh không vi phạm Điều 126 Luật các TCTD.

2/-Vi phạm các quy định của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, ban hành kèm theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, như: Điều 6 quy định về sử dụng vốn vay, Điều 7 quy định về điều kiện vay vốn, Điều 15 quy định về thẩm định và quyết định cho vay, Điều 19 quy định về những trường hợp không được cho vay đối với khách hàng là thành viên HĐQT, Điều 21 quy định về kiểm tra giám sát vốn vay. Về các quy kết này, tôi xin có ý kiến như sau:

-Về vi phạm Điều 6 và Điều 7:

       +Về mục đích vay vốn: khi khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, thì Ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 25 Quy chế cho vay.

       +Về điều kiện vay vốn: Hồ sơ thể hiện các Công ty vay vốn là pháp nhân được thành lập hợp pháp; có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và đều có tài sản thế chấp hợp pháp bảo đảm khoản vay, nên hội đủ các quy định tại Điều 6 và Điều 7 Quy chế cho vay.

-Vi phạm Điều 15 về thẩm định và quyết định cho vay: Hồ sơ vay đã được Chi nhánh thẩm định, Hội đồng thẩm định Chi nhánh đề xuất và thông qua Hội đồng tín dụng Hội sở đồng ý. Việc lấy ý kiến Hội đồng tín dụng Hội sở không có gì sai, vì tất cả đã đồng ý ký tên và ghi ý kiến của mình vào Biên bản, thể hiện ý chí và trách nhiệm của các thành viên.

-Vi phạm Điều 19 về trường không được cho vay đối với khách hàng là thành viên HĐQT: Như trên đã phân tích, các pháp nhân được thành lập hợp pháp ký hợp đồng vay, bảo đảm bằng tài sản có quyền sở hữu hợp pháp của pháp nhân, không phải cá nhân Phạm Công Danh là thành viên HĐQT Ngân hàng vay, nên không vi phạm Điều 19.

-Vi phạm Điều 21 về kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng: Việc này thuộc trách nhiệm Chi nhánh. Theo quy định tại Điều 25 Quy chế cho vay, Ngân hàng có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm vốn vay theo thỏa thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định pháp luật (nghĩa là khởi kiện khách hàng để phát mãi tài sản bảo đảm thu hồi nợ). Mặt khác, theo quy định tại Điều 22 Quy chế cho vay thì trường hợp khách hàng không trả được nợ gốc, lãi đúng hạn thì ngân hàng có thể xem xét cho điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ.

3/-Căn cứ chứng thư thẩm định giá ngày 04-9-2014 của Cty CP thông tin và thẩm định giá Miền Nam, thẩm định giá trị TSTC chỉ có giá trị là 2.604.070.565.200đồng, Cáo trạng quy kết: Đến nay VNCB không thu hồi được số tiền 2.095.929.434.800đ (4.700.000.000.000đ- 2.604.070.565.200đ) đã cho các Cty của Phạm Công Danh vay. Hành vi nêu trên của Phạm Công Danh đã phạm vào tội “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD”, quy định tại khoản 3 Điều 179 BLHS. Chúng tôi xin có ý kiến như sau:

Điều 179 Bộ Luật Hình sự quy định: Người nào trong hoạt động tín dụng mà có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng:

a)   Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật.

b)   Cho vay quá giới hạn quy định

c)   Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng.

Như vậy, 2 dấu hiệu của tội danh này là: Vi phạm quy định về cho vay và gây hậu quả nghiêm trọng, trong đó dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc. Cho dù có vi phạm quy định về cho vay, nhưng không gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng không cấu thành tội phạm mà cùng lắm chỉ bị xử phạt hành chính. Vấn đề cầm làm rõ ở đây là: Thực tế VNCB có bị thiệt hại 2.095.929.434.800 đồng không và VNCB?

-Về thiệt hại: Theo quy định tại các Điều 336, 338 và 355 Bộ Luật Dân sự; Điều 56 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; khoản 1 Điều 25 Quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước: Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà bên có nghĩa vụ trả nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận thì TSTC được xử lý theo phương thức do các bên thỏa thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ. Tiền bán TSTC được ưu tiên thanh toán cho bên nhận thế chấp, nếu còn thừa thì phải trả lại cho bên thế chấp, nếu còn thiếu thì bên thế chấp phải trả tiếp phần còn thiếu.

Tài sản thế chấp cho các khoản vay theo quy định tại các khoản vay là “Quyền sử dụng đất Dự án khu phức hợp dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng, Hải Châu II, quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng”, đã được cấp giấy CNQSD đất và đăng ký giao dịch bảo đảm hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Thời điểm cho vay, theo chứng thư thẩm định giá ngày 24-12-2012 của Cty CP tư vấn, dịch vụ về tài sản, bất động sản DATC-Bộ Tài chính thì tổng giá trị quyền sử dụng đất là 10.414.687.000.000đồng. Điều 115 Luật Đất đai quy định:

-Tư vấn xác định giá đất được thực hiện khi thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến giá trị đất cụ thể mà các bên có yêu cầu (điểm c khoản 1 Điều 115).

-Việc xác định giá đất của tư vấn xác định giá đất phải độc lập, khách quan, trung thực và tuân theo nguyên tắc, phương pháp định giá đất quy định tại Điều 112 của Luật này (khoản 3 Điều 115).

Điều 112 Luật Đất đai khoản 1 quy định: Việc định giá đất đai bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

       A)Theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá.

       B)Thời hạn sử dụng đất

       C)Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có có cùng mục đích sử dụng.

Đối với các lô đất thế chấp, UBND TP Đà Nẵng đã có Quyết định số 6638/QĐ-UB ngày 06-9-2010 phê duyệt sơ đồ ranh giới sử dụng khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng.

Ngày 09-9-2010 UBND. TP. Đà Nẵng đã có Quyết định số 6836/QĐ-UBND thu hồi khu đất để thực hiện chủ trương xây dựng khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng. Ngày 12-10-2010, Chủ tịch UBND. TP Đà Nẳng đã có văn bản số 6381/UBND-QLĐTH đồng ý cho phép Tập Đoàn Thiên Thanh được đầu tư vào dự án khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng theo ranh giới sử dụng đất được UBND. Thành phố phê duyệt tại Quyết định số 6638/QĐ-UBND ngày 06-9-2010. Ngày 20-01-2011, UBND TP. Đà Nẵng có Quyết định số 704/QĐ-UBND phê duyệt sơ đồ ranh giới chuyển quyền sử dụng đất khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng cho Cty TNHH Tập đòan Thiên Thanh. Mặc dù cùng ngày 13/9/2010, UBND TP Đà Nẵng đã ban hành 4 Quyết định (từ số 6966 đến số 6669/QĐ-UBND), về việc phê duyệt tỷ lệ quy hoạch chi tiết 1/500 các Khu tái định cư để thực hiện việc tái định cư cho các hộ giải tỏa giải phóng mặt bằng thuộc Khu vực dự án, nhưng thực tế chi phí đền bù giải tỏa di dời do Tập đoàn Thiên Thanh chi trả. Ngày 25/01/2011, Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng đã có công văn số 482/UBND-ĐBGT nói rõ:

1.            Đồng ý chủ trương giữ lại nguyên trạng một số công trình hiện hữu trên khu vực đất dự án sau khi chi trả tiền đền bù để Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh sử dụng triển khai các khu vực chức năng như: Văn phòng làm việc của các Ban quản lý dự án, , Văn phòng giao dịch, kho nguyên vật liệu thi công, cụ thể:

A) Các khu nhà giáp 4 mặt tiền đường Hùng Vương- Ngô Gia Tự- Triệu Nữ Vương- Lê Duẫn (nằm trong khoảng lùi của công trình chính).

B) Một số công trình bên trong Sân vận động Chi Lăng (sẽ phá dỡ bỏ những hạng mục không cần thiết).

2. Yêu cầu Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh làm việc trực tiếp với UBND quận Hải Châu, Ban Giải tỏa đền bù các dự án ĐT-XD số 1, Công ty Quản lý và Khai thác đất Đà Nẵng  và các đơn vị liên quan:

A) Thống nhất xác định cụ thể các khu vực cần giữ lại để có kế hoạch bàn giao mặt bằng hợp lý.

B) Xác định giá trị hỗ trợ lại cho các chủ sử dụng thay vì tháo dỡ, tận thu tài sản; đồng thời có kế hoạch phân trách nhiệm cụ thể giữa chủ đầu tư và Hội đồng giải phóng mặt bằng dự án, báo cáo UBND Thành phố quyết định để có cơ sở triển khai thực hiện.

           Trong quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư thì việc đền bù giải tỏa nhà phố cư dân, giải phóng mặt bằng là khâu căng thẳng nhất, tốn kém nhất! Đây lại là khu vực đắc địa Trung tâm thành phố với 4 mặt tiền trục đường chính. Vì vậy chi phí đền bù giải phóng mặt bằng đối với gần 100 hộ dân  4 mặt phố mà Tập đoàn Thiên Thanh đã phải bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng, nhưng không thể hạch toán sổ sách (giống như chi “chăm sóc khách hàng gửi tiền”!).

  Ngày 28-01-2011, UBND TP. Đà Nẵng đã cấp 10 Giấy CNQSD đất cho 10 Cty thuộc Tập đoàn Thiên Thanh, Giấy CNQSD đất ghi rõ mục đích sử dụng đất là “Đầu tư dự án khu phức hợp dịch vụ cao tầng (theo đơn giá đất ở)” với thời hạn “sử dụng lâu dài”.

Ngày 07-6-2012, Chủ tịch UBND TP. Đà Nẳng có văn bản số 4060/UBND-KTTA xác nhận Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh đã hoàn thành các nghĩa vụ tài chính, nhằm tạo điều kiện cho Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh triển khai thực hiện đầu tư phát triển dự án khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng.

Chứng thư thẩm định giá ngày 24-12-2012 của DATC Bộ tài chính ghi rõ:

-Tài sản thẩm định giá: Giá trị quyền sử dụng đất Dự án khu phức hợp Dịch vụ cao tầng tại khu vực sân vận động Chi Lăng, Hải Châu II, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng.

-Mục đích thẩm định giá: Làm cơ sở tham khảo cho mục đích thế chấp vay vốn ngân hàng góp vốn liên doanh.

-Cơ sở thẩm định giá: Giá thị trường

-Kết quả thẩm định giá: Trên cơ sở hồ sơ, tài liệu do Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh cung cấp; qua khảo sát thực tế hiện trạng của bất động sản, tham khảo đơn giá xây dựng, giá bán căn hộ chung cư trên thị trường. Sử dụng các phương pháp thẩm định giá trong tính toán; Cty cổ phần tư vấn-Dịch vụ về tài sản-Bất động sản DATC thông báo kết quả thẩm định giá như sau: Tổng giá trị quyền sử dụng đất của Dự án khu phức hợp Dịch vụ cao tầng tại khu vực sân vận động Chi Lăng, Hải Châu II, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng là: 10.414.687.000.000 đồng.

-Kết quả thẩm định giá chỉ xác nhận khi người sử dụng đất các lô đất đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính đất đai theo quy định của Nhà Nước và thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng toàn bộ dự án.

-Kết quả thẩm định giá được sử dụng làm cơ sở tham khảo cho mục đích thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp vốn liên doanh. Không sử dụng kết quả thẩm định giá cho mục đích khác.

Công ty DATC-Bộ Tài Chính là 1 tổ chức có chức năng và uy tín trong tư vấn thẩm định giá. Nội dung chứng thư thẩm định giá hoàn toàn phù hợp quy định tại Điều 112 Luật Đất đai về mục đích sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất, giá đất thị trường và mục đích thẩm định giá. VNCB căn cứ kết quả thẩm định giá này cho vay là đúng pháp luật.

Sau khi vụ án xảy ra, Phạm Công Danh bị bắt tạm giam. Theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà Nước, ngày 04-9-2014 Cty CP Thông tin thẩm định giá Miền Nam (SIVC) có chứng thư thẩm định giá cùng khu đất trên, với nội dung sau:

-Tài sản thẩm định giá: Quyền sử dụng đất

-Mục đích thẩm định giá: làm cơ sở xác định giá trị tài sản theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà Nước.

-Thời điểm định giá: tháng 9-2014 (sau khi vụ án xảy ra và tài sản đã bị kê biên theo lệnh kê biên số 06/C46 (P10) ngày 21-8-2014).

-Phương pháp thẩm định giá: phương pháp so sánh

-Kết quả thẩm định giá: 2.604.070.565.200 đồng

-Kết quả thẩm định giá chỉ phục vụ cho mục đích duy nhất là làm cơ sở xác định giá trị quyền sử dụng đất theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, SIVC không chịu trách nhiệm khi khách hàng sử dụng kết quả thẩm định giá này cho bất kỳ mục đích nào khác.

-Mức giá nêu trên chỉ được xác nhận tại thời điểm định giá, với các chính sách quản lý của Nhà Nước hiện tại có liên quan. Trong trường hợp chính sách của Nhà nước thay đổi có thể làm cho các mức giá trên thay đổi (nghĩa là định giá theo chính sách quản lý đất đai của Nhà Nước, không theo giá thị trường)

-Những hạn chế của kết quả thẩm định giá:

       +Khách hàng yêu cầu thẩm định giá không phải là chủ sở hữu tài sản, không cung cấp giấy ủy quyền của chủ sở hữu đồng ý cho VNCB thẩm định giá với mục đích làm cơ sở xác định giá trị tài sản theo yêu cầu của NHNN.

       +Tại thời điểm thẩm định giá, trong khu vực tài sản thẩm định giá có những tài sản được đưa ra giao dịch trên thị trường nhưng không hoàn toàn tương đồng với tài sản thẩm định giá nên khó có sự lựa chọn tốt nhất để so sánh với tài sản thẩm định gốc.

Cty SIVC định giá theo phương pháp so sánh, nhưng xác nhận trong khu vực tài sản thẩm định giá không có tài sản tương đồng với tài sản thẩm định giá (dự án…) nên khó so sánh thì làm sao định giá được? Cty SIVC định giá theo yêu cầu của NHNN và chỉ thẩm định giá trị quyền sử dụng đất ở theo chính sách Nhà nước, không thẩm định giá trị QSD đất thuộc Dự án đã thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với Nhà Nước và đã thực hiện giải phóng mặt bằng trên toàn bộ dự án theo giá thị trường. Vì vậy, giá trị QSD đất do SIVC thẩm định không phù hợp Điều 112 Luật Đất đai, không thể hiện được giá thị trường của đất Dự án.

Căn cứ Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02-3-2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, cơ quan CSĐT-BCA đã có quyết định trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Tp. Đà Nẵng định giá đất liên quan vụ án xảy ra tại NH TMCP XDVN. Biên bản họp Hội đồng định giá tài sản ngày 14-5-2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Đà Nẵng có nội dung:

-Thống nhất các nội dung báo cáo trước đây của Hội đồng là do các thời điểm CQ CSĐT-BCA trưng cầu định giá phần lớn thuộc về quá khứ, Hội đồng không có đủ thông tin giá đất thị trường theo các thời điểm nêu trên nên không có cơ sở định giá theo giá đất thị trường.

-Thời điểm tháng 02/2014, tháng 9/2014 và tháng 3/2015: Nếu áp dụng Bảng giá đất và quy định về việc xác định giá đất tại Quyết định số 41/2013/QĐ-UBND ngày 20-12-2013 của UBND thành phố cho thấy giá đất không thay đổi so với Quyết định số 62/2012/QĐ-UBND nên giá đất của khu đất này không thay đổi so với năm 2013 là 22.900.000đ/m2. Giá trị khu đất là 1.260.896.900.000đồng (22.900.000đ/m2 x 55.061m2)

Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02-3-2005 của Chính phủ, về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, quy định:

-Điều 2: Nguyên tắc định giá tài sản

         1.Phù hợp với giá thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm.

         2.Trung thực, khách quan, công khai và kịp thời.

-Điều 15: Khảo sát giá

       Hội đồng định giá tài sản thực hiện khảo sát giá bằng các hình thức sau đây:

         1.Khảo sát giá thị trường theo giá bán buôn hoặc bán lẻ đối với tài sản cùng loại hoặc tương đương còn mới, có chất lượng đạt một trăm phần trăm.

-Điều 16: Phiên họp định giá tài sản.

 

4/-Đại diện cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu định giá tài sản, đại diện các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản cần định giá được tham dự phiên họp định giá tài sản và có thể phát biểu ý kiến về việc định giá, nhưng không được quyền biểu quyết về giá của tài sản.

Đối chiếu với các quy định nêu trên, tôi nhận thấy rằng “Biên bản họp Hội đồng Định giá tài sản” ngày 04-5-2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Đà Nẵng là không có giá trị pháp lý, vì những lý do sau đây:

-Biên bản này được đóng dấu MẬT, không có đại diện các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản tham dự phiên họp, vi phạm  quy định tại khoản 2 Điều 3 và khoản 4 Điều 16 Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 02-32005.

-Biên bản này xác nhận không có cơ sở định giá đất theo giá thị trường, và áp dụng giá đất do UBND TP. Đà Nẵng ban hành năm 2013 là 22.900.000đ/m2 , tổng trị giá 1.260.896.900.000đồng. Trong khi đó, theo Quyết định số 7140/QĐ-UBND ngày 17-9-2010 UBND TP. Đà Nẵng đã quy định giá đất khu vực này là 25.300.000đ/m2, tổng trị giá phải nộp là 1.393.043.300.000đồng, vi phạm khỏan 1 Điều 2 Nghị định 26/2005/NĐ-CP và không phù hợp Quyết định số 7140/QĐ-UBND ngày 17-9-2010 của UBND TP. Đà Nẵng.

-Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 02-3-2005 quy định nguyên tắc định giá tài sản là “phù hợp với giá thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm” (khoản 1 Điều 2), “khảo sát giá thị trường theo giá bán buôn hoặc bán lẻ đối với tài sản cùng loại hoặc tương đương còn mới, có chất lượng đạt một trăm phần trăm” (khoản 1 Điều 15). Quy định này cho phép tôi hình dung tài sản thuộc đối tượng áp dụng của nghị định này không phải là quyền sử dụng đất, hay chí ít cũng không phải là Đất của dự án trong vụ án này, vì QSD đất này không có bị xâm phạm, và cũng không thể có giá bán buôn, bán lẻ gì đối với QSD đất!

Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa cho rằng chỉ có giá 1.260.896.900.000đ của “Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Đà Nẵng” là đúng quy định pháp luật; giá thẩm định 2.604.070.565.200đồng của SIVC là không đúng quy định pháp luật (Chủ tọa không nhắc gì đến thẩm định giá của DATC Bộ tài chính). Tuy nhiên, áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, Hội đồng xét xử cho phép bị cáo Phạm Công Danh được lựa chọn một trong 2 mức giá nêu trên. Bị cáo Danh trả lời không chấp nhận cả 2, đề nghị cho gia đình tìm đối tác để chuyển nhượng đúng theo giá thị trường! Từ các phân tích trên, chúng tôi nhận thấy ý kiến của bị cáo Danh là hoàn toàn chính xác! Nếu Chủ tọa đã nêu nguyên tắc có lợi cho bị cáo thì tại sao không chấp nhận giá thẩm định của DATC-Bộ Tài chính? Chúng tôi rất hoan nghênh Chủ tọa phiên tòa đã đồng ý tạo điều kiện cho bị cáo Danh được tiếp xúc với gia đình và đại diện của Tập đoàn Thiên Thanh để bàn giải pháp tìm đối tác mua với giá cao hơn, nhằm khắc phục thiệt hại. Tuy nhiên, với thời gian quá eo hẹp, lại trong hoàn cảnh vụ án đang xét xử, tài sản đang bị kê biên, đang chịu sức ép của công luận thì rõ ràng thiện ý của Chủ tọa phiên tòa không thể nào thực hiện được! Bị cáo Danh đã phải thốt lên: trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, lần đầu tiên nguyện vọng khắc phục hậu quả của bị cáo mới được Chủ tọa quan tâm, nhưng lại không thể thực hiện ngay trong một hai ngày! Phải chi bị cáo được tạo điều kiện từ giai đoạn điều tra thì tình thế chắc đã phải khác! Số phận thôi đành chịu vậy!

Tại phiên tòa, khi được luật sư hỏi đại điện Ngân hàng TMTNHHMTV Xây dựng Việt Nam (CB): Ngân hàng có bị thiệt hại như Cáo trạng nêu không? Ngân hàng có yêu cầu bồi thường thiệt không? Đại diện CB cũng đã trả lời: Tài sản thế chấp chưa được xử lý để thu hồi nợ thì không thể có căn cứ xác định được thiệt hại, nên CB không có yêu cầu bồi thường mà tùy thuộc quyết định của Tòa án. Khoản 1 Điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. CB kế thừa toàn bộ quyền lợi, nghĩa vụ của VNCB, được Cáo trạng xác định bị thiệt hại 2.095.929.434.800đồng, đáng lý CB phải là Nguyên đơn dân sự trong vụ án chứ không phải Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan. Đại diện CB xác nhận chưa xác định được thiệt hại vì TSTC chưa xử lý, không có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại thì làm sao HĐXX xem xét?

Kết luận điều tra (trang 1840 và Cáo trạng(trang 85), đã xác định: “các cá nhân trong Hội đồng tín dụng Hội sở Ngân hàng Đại Tín gồm: Ông Hoàng Văn Toàn, nguyên Chủ tịch HĐQT; ông Trần Sơn Nam, nguyên Tổng giám đốc… Việc phê duyệt 02 khoản là căn cứ theo quy trình, quy chế cho vay, tài sản bảo đảm là 5.104m2 đất, thửa đất số 130, Tờ bản đồ số 3 tại lô đất số 03 khu phức hợp TM&DV cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng, P. Hải Châu II, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng đã được Cty DATC Bộ Tài chính định giá thời điểm tháng 12/2012 là 913,369 tỷ đồng (giá trị đủ bảo đảm cho khoản vay 650tỷ đồng – Cty SIVC định giá lại 178,818tỷ đồng); trong hồ sơ có tài sản đảm bảo, có phương án kinh doanh, có hợp đồng mua bán và được Chi nhánh thẩm định, cán bộ Hội sở tái thẩm định đồng ý cho vay. Với tài liệu chứng cứ hiện có không đủ căn cứ xử lý hình sự đối với các cá nhân này!” Tôi nhận thấy kết luận này của CQCSĐT-BCA và VKSNDTC là hoàn toàn chính xác, thấu lý đạt tình!

Tuy nhiên, tiếp theo 02 khoản vay nêu trên, 12 khoản vay sau cũng được thực hiện tương tự: cũng đều đúng quy trình, quy chế cho vay; tài sản đảm bảo cũng là các lô đất khu phức hợp TM & DV cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng đã được Cty DATC Bộ Tài chính định giá thời điểm tháng 12/2012 cao hơn nhiều so khoản vay, trong hồ sơ có phương án kinh doanh, có hợp đồng mua bán và được Chi nhánh thẩm định, cán bộ Hội sở tái thẩm định đồng ý cho vay. Vậy mà Phạm Công Danh, người thay thế Ông Hoàng Văn Toàn làm Chủ tịch HĐQT và các cán bộ dưới quyền đều bị  xử lý hình sự phải ra trước vành móng ngựa hôm nay! Khi nêu vấn đề này, tôi không có mong muốn gì hơn là Phạm Công Danh và 35 bị cáo hôm nay cũng được xem xét công bằng như ông Hoàng Văn Toàn và các bộ Hội đồng tín dụng Ngân hàng Đại Tín trước đây, căn cứ Điều 196 Bộ Luật TTHS về giới hạn của việc xét xử mà Chủ tọa thường nhắc nhở! Thế nhưng, tôi vô cùng ngạc nhiên khi trong phần luận tội tại phiên tòa hôm qua, vị đại diện VKSND TPHCM, thừa ủy quyền VKSNDTC giữ quyền công tố tại phiên tòa, lại phủ nhận kết luận trên đây của Kết luận điều tra của CQCSĐT-Bộ CA và Cáo trạng của VKSNDTC, đề nghị khởi tố bị can đối với  các thành viên của Hội đồng tín dụng Ngân hàng Đại Tín cũ, chỉ với lý do  kết quả định giá của Cty DATC-Bộ Tài Chính là định giá tài sản hình thành trong tương lai, VKSND TPHCM chọn kết quả định giá của SIVC! Việc định giá thì tôi đã phân tích ở phần trên, xin không lặp lại. Tôi rất băn khoăn trước kết luận mới này của đại diện VKSND TPHCM. Hóa ra việc có tội hay không có tội, số phận của con người chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn của cơ quan tiến hành tố tụng đối với kết quả định giá của một Công ty thẩm định giá nào đó, mà những người chủ tài sản không có quyền có ý kiến!? Thế còn giá trị thực theo thị trường của tài sản ở đâu? Chỉ có thể tổ chức đấu giá theo quy định của pháp luật. Thế nhưng khi kết luận về phần dân sự, đại diện VKS ND TPHCM lại đề nghị giải tỏa kê biên 10 QSD đất của các Cty thuộc Tập đoàn Thiên Thanh, giao cho CB phát mãi thu hồi nợ, số tiền nếu còn dư thì giao cho cơ quan Thi hành án tiếp tục khắc phục hậu quả vụ án!? Trớ trêu thay! Nếu phát mãi thu hồi nợ mà còn dư tiền so với số nợ được bảo đảm thì đáng lý ra Phạm Công Danh và 10 Công ty thuộc Tập đoàn Thiên Thanh không phạm tội, phải khôi phục quyền lợi và trả lại tiền còn thừa cho chủ tài sản thế chấp mới đúng luật và hợp lẽ công bằng.

Tóm lại, việc cho 12 Cty có đầy đủ tư cách pháp nhân độc lập vay theo đúng quy trình, quy chế cho vay, tài sản bảo đảm đã được Cty DATC Bộ tài chính định giá cao hơn nhiều so với khoản vay. Đến nay mặc dù các khoản vay đã quá hạn, nhưng do xảy ra vụ án các tài sản thế chấp bị bê biên, chưa xử lý phát mại thu hồi nợ nên chưa có đủ căn cứ quy kết bị cáo Danh vi phạm quy định cho vay gây thiệt hại cho VNCB với số tiền 2.095.929.434.800 đồng.

 

III/-MỘT SỐ HÀNH VI, SỰ VIỆC CÓ LIÊN QUAN:

1/-Đối với hành vi rút 3.100 tỷ đồng ngày 21/8/2013 và 2.090 tỷ đồng ngày 26/8/2013 chứng từ không có chữ ký của chủ tài khoản. Rút 300 tỷ đồng không có hồ sơ vay liên quan đến nhóm Trần Ngọc Bích, gây thiệt hại cho VNCB 5.490 tỷ đồng.

 

       A/-Đối với số tiền 3.100 tỷ đồng và 2.090 tỷ đồng:

+Theo Kết luận điều tra, Cáo trạng và sự xác nhận của Trần Ngọc Bích, Phạm Công Danh và VNCB:

       -Cùng trong một ngày 21/8/2013 số tiền 3.100 tỷ được VNCB  chuyển từ TK Trần Ngọc Bích qua TK Phạm Công Danh, từ TK Phạm Công Danh chuyển vào TK Trấn Quý Thanh số tiền 3.160.707.301.260đ, từ TK Trần Quý Thanh chuyển trả VNCB để tất toán khoản vay 3.100 tỷ ngày 21-6-2013

       -Đối với số tiền 2.090tỷ diễn ra cùng ngày 26-8-2013 cũng tương tự như số tiền 3.100tỷ trên, cuối cùng là để tất toán khoản vay ngày 30/7/2013.

Theo bà Trần Ngọc Bích thì vào ngày 21-8-2013 và ngày 26-8-2013 bà Bích gửi vào VNCB số tiền 3.100tỷ và 2090 tỷ, thể hiện bằng 3 HĐ tiền gửi (Bà Bích đang giữ bản chính). Một năm sau khi CQĐT báo Bà Bích mới biết số tiền của Bà không còn trong TK tiền gửi, nên Bà đã sử dụng 3 HĐ tiền gửi này để khởi kiện VNCB tại TAND Q.3 để đòi 5.190 tỷ đồng. Đồng thời tại phiên tòa hình sự này, Bà Bích cũng lại yêu cầu VNCB hoàn trả số tiền 5.190 tỷ đồng lại tài khoản của Bà Bích, vì VNCB đã tự tiện chuyển qua TK Phạm Công Danh mà không được sự đồng ý của Bà Bích.

VNCB thì cho rằng cùng 1 số tiền 5.190tỷ trong cùng một ngày không thể vừa chuyển vào TK Phạm Công Danh, lại vừa gửi vào VNCB bằng 3 Hợp đồng tiền gửi. Việc chuyển tiền từ TK bà Bích vào TK Ông Danh, từ Ông Danh vào TK ông Thanh, từ TK Ông Thanh tất toán nợ cũ là có thật, việc này đã được các bên thỏa thuận và đã thực hiện rất nhiều lần từ trước, ngân hàng thực hiện chuyển tiền xong gởi chứng từ cho Bà Bích ký bổ sung sau (nợ chứng từ). Không hiểu sao lần này Bà Bích không nộp lại chứng từ chuyển tiền. Vì vậy 3 Hợp đồng tiền gửi do Bà Bích xuất trình là 3 Hợp đồng khống, không có tiền gửi vào và cũng không thể hiện trong sổ sách ngân hàng.

Bà Bích lại cho rằng khoản tiền 5.190tỷ cũng là tiền Bà Trang trả nợ cho Bà Bích và được Bà Bích gửi vào VNCB bằng 3 Hợp đồng tiền gửi (nhưng hoàn toàn chỉ là lời khai của bà Bích, không có bất cứ chứng cứ gì chứng minh, cũng không có sự xác nhận của bà Trang). Chúng tôi cho rằng cách giải quyết vấn đề này cũng đơn giản thôi:

       1/-ViệC chuyểN tiềN 5.190tỷ đồNg từ TK Bà Bích qua TK Ông Danh, VNCB không chứNg minh đượC có sự đồNg ý củA Bà Bích. VậY thì VNCB khôi phụC lạI tình trạNg ban đầU: PhụC hồI lạI nợ Nhóm Bà Bích 5.190tỷ đồNg, chuyểN trả Lại TK ông TrầN Qu› Thanh, từ TK Ông Thanh trả Lại TK ông Danh tiềN (3.160.707.301.260đồNg + 2.110.402.162.956đồNg) = 5.271.109.464.216đồNg, từ TK Ông Danh chuyểN trả Lại TK Bà Bích số Tiền 5.190tỷ đồNg (phần dôi ra 81.109.464.216 đồNg là củA Ông Danh). VậY là xong việC chuyểN tiền trả Lại TK củA Bà Bích theo yêu cầu của Bà Bích.

       2/-ĐốI vớI 3 HợP đồNg tiềN gởI số Tiền 5.190tỷ đồNg mà Bà Bích đAng khởI kiệN đ¼i VNCB tạI TAND QuậN 3, thì Bà Bích có trách nhiệm chứng minh nguồn tiền từ đâu gởi vào VNCB? Bởi việc gởi tiền không chỉ đơn thuần ký Hợp đồng là xong mà phải có nguồn tiền từ TK thanh tóan hoặc từ TK tiết kiệm hoặc nộp tiền mặt. Sự thật thế nào sẽ do Tòa án Q. 3 quyết định.

       3/-Theo Cáo trạng, “Để có tiền trả các khoản nợ và các khoản chi phục vụ hoạt động của tập Đoàn Thiên Thanh của Phạm Công Danh, sau khi đã nắm quyền chi phối, kiểm soát VNCB, Phạm Công Danh đã thông qua Phạm thị Trang đặt vấn đề với Ông Trần Quí Thanh, con gái Ông Thanh là Trần Ngọc Bích và một số người thân của gia đình Bà Bích (sau đây gọi chung là Nhóm Trần Ngọc Bích) gửi tiền vào VNCB để Danh làm các thủ tục vay-rút tiền, sử dụng cho các mục đích nêu trên”. Theo Kết luận điều tra, Cáo trạng và sự thừa nhận của các bên liên quan, thì giao dịch giữa nhóm Bà Bích-VNCB-Phạm Công Danh đã diễn ra từ 28-02-2012 đến 30-7-2013 có 16 lần với 122 khoản vay bằng hình thức cầm cố Sổ tiết kiệm của nhóm Trần Ngọc Bích, với tổng số tiền VNCB đã giải ngân là 17.761,5tỷ đồng, đều đã được tất toán. Trong phần xét hỏi tại Tòa, thì quan điểm của Chủ tọa phiên tòa cho rằng giai đoạn này đã tất toán xong nên là giao dịch dân sự, Tòa không xét trong vụ án hình sự này. Tuy nhiên, việc tất toán giao dịch này không phải vào thời điểm 21/6/2013, 26/7/2013 và 30-7-2013, mà thực tế diễn ra ngày 21-8-2013 và 26-8-2013 bằng khoản tiền 5.190tỷ đang có tranh chấp và Phạm Công Danh đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với khoản tiền này. Ông Danh cho rằng Ông Danh vay tiền của Ông Trần Quý Thanh thông qua TK bà Bích và trả nợ vay qua TK Trần Quý Thanh, toàn bộ quá trình này từ 12/2012 đến 21/8/2013, 26/8/2013, được chứng minh bằng toàn bộ giao dịch thông qua TK Ngân hàng VNCB và các biên nhận trả lãi vay ngoài, có ký nhận của Nguyễn Tấn Lộc và Vũ Anh Tuấn, do nhân viên Tập Đoàn Thiên Thanh đã cung cấp bổ sung và giải thích rõ tại phiên tòa. Toàn bộ quá trình này chưa được làm rõ. Vì vậy, tại trang 27 cáo trạng cũng đã nêu: “Trong quá trình điều tra vụ án VKSNDTC đã có các yêu cầu điều tra số 25/VNSTC-V1 ngày 04-8-2014; số 12/VKSTC-V1 ngày 08/4/2015 làm rõ trách nhiệm của Trần Ngọc Bích và những người liên quan trong nhóm này, nhưng kết quả điều tra điều tra chưa đáp ứng. Vì vậy, đề nghị HĐXX tiếp tục điều tra công khai làm rõ tại phiên tòa để tránh bỏ lọt tội phạm và việc giải quyết tài sản kê biên là 124 sổ tiết kiệm của Nhóm Trần Ngọc Bích với số tiền 5.881tỷ đồng đảm bảo căn cứ, đúng quy định của pháp luật”. Như vậy, ở đây vấn đề đặt ra là:

+Nếu cho rằng giao dịch này vi phạm Luật Hình sự gây thiệt hại cho VNCB 5.190tỷ đồng, thì phải xác định sự thật toàn bộ giao dịch từ đầu đến cuối một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, từ đó xác định trách nhiệm những người có liên quan, thu hồi các khoản thu lợi bất chính nhằm khắc phục hậu quả thiệt hại cho VNCB. Không thể cắt khúc giao dịch giai đoạn đầu là dân sự và giai đoạn cuối là hình sự, làm mất đi bản chất thực sự của giao dịch dẫn đến thiệt hại cho VNCB.

+Phạm Công Danh từ đầu tới cuối đều xác nhận đây là quan hệ vay nợ giữa cá nhân Phạm Công Danh với Ông Trần Quí Thanh mà người trực tiếp thực hiện là Trần Ngọc Bích, chỉ mượn tài khoản VNCB để giao dịch, không liên quan trách nhiệm VNCB.

 +Bản thân Ông Trần Quý Thanh (bản tường trình và kiến nghị ngày 16-9-2014-BL 012001) và Bà Trần Ngọc Bích (Bản tường trình ngày 24-9-2014-BL 011640) lại cho rằng chỉ cho Phạm Thị Trang vay, không cho Phạm Công Danh vay, chỉ mượn TK tại VNCB để giao dịch. Danh không nợ nần gì Ông Trần Quý Thanh, Trần Ngọc Bích. Còn đối với việc VNCB chuyển số tiền 5.190tỷ đồng khỏi TK bà Bích mà không có sự đồng ý của Bà Bích thì Bà đã khởi kiện dân sự, Tòa án nhân dân Quận 3 đã thụ lý từ 01-8-2014, nhưng tạm đình chỉ chờ kết quả giải quyết vụ án hình sự này. Sự thật khoản tiền 5.190tỷ đồng này Danh không sử dụng cá nhân mà chính Trần Quý Thanh đã dùng tất toán nợ vay 21/6 - 26/7 - 30/7/2013 tại chính VNCB, tiền không ra khỏi VNCB mà quay về VNCB. Danh không gây thiệt hại VNCB số tiền này.

 Như vậy, toàn bộ giao dịch này là dân sự được tách ra giải quyết trong cùng vụ án do TAND Quận 3 đang thụ lý giải quyết là hợp lý.

Tại phiên tòa, nhân viên Cty Thiên Thanh và đại diện CB cung cấp thêm nhiều chứng cứ mới với lời giải thích phù hợp  thực tế và chứng từ giao dịch. Tuy nhiên, trong phần luận tội tại phiên tòa hôm qua, đại diện VKSND TPHCM cho rằng chưa có đủ cơ sở xem xét tội cho vay lãi nặng đối với Trần Ngọc Bích, đề nghị khởi tố Phạm Thị Trang, chuyển trả lại 5.190 tỷ vào TK Trần Ngọc Bích, khôi phục lại nợ đã tất toán bằng số tiền này và giữ lại 118 Sổ tiết kiệm của Nhóm Trần Ngọc Bích để đảm bảo nợ. Chúng tôi rất ngạc nhiên trước đề nghị này và nếu chuyển trả từ TK Phạm Công vào TK Trần Ngọc Bích số tiền 5.190 tỷ thì phải trừ số tiền này vào thiệt hại do hành vi cố ý làm trái vì đâu còn thiệt hại?

       B/-Đối với việc rút số tiền 300tỷ đồng bằng hình thức vay cầm cố sổ tiết kiệm đứng tên 3 cá nhân Nhóm Trần Ngọc Bích nhưng không có hồ sơ vay.

Trong phần luận tội, đại diện VKSND TPHCM đã không đề cập đền khoản tiền này.

Nhân viên của Tập Đoàn Tân Hiệp Phát (Trần Hoài Phục, Nguyễn Thị Mỹ Dung và Ngô Bích Thùy Trang) xác nhận cùng ngày 19-12-2013 họ có gửi số tiền 303,5tỷ đồng để nhận 6 sổ tiết kiệm (nguồn gốc tiền này là của Ông Trần Quí Thanh, lãi tiết kiệm cũng được trả trực tiếp vào TK của Ông Trần Quí Thanh tại VNCB). Họ cho rằng do họ có dự định cầm cố STK vay vốn kinh doanh nên cả 3 người này đều đã đưa 6 STK cho VNCB để vay tiền. Sau đó họ đổi ý không vay nhưng vẫn để 6 STK này cho VNCB “giữ hộ”. Họ không thừa nhận họ có ký Hợp đồng vay vốn. Họ yêu cầu trả lại 6 STK.

Lập luận này của họ là không có căn cứ, không phù hợp thực tế giao dịch diễn ra giữa nhóm Trần Ngọc Bích và Ông Phạm Công Danh. Bằng chứng là:

       -Xuyên suốt quá trình giao dịch cho vay giữa nhóm Trần Quí Thanh với Phạm Công danh thông qua VNCB đều bằng hình thức: Nguồn tiền từ Ông Trần Quí Thanh giao cho các nhân viên Tập Đoàn Tân Hiệp Phát gửi tiết kiệm  vào VNCB, dùng STK cầm cố lại VNCB vay tiền rồi dùng tiền nay cho Danh vay bằng chuyển khoản vào TK Danh hoặc cá nhân do Danh chỉ định. Việc Ông Thanh, Bà Bích và 3 nhân viên trên cho rằng Ông Thanh cho 3 nhân viên mượn tiền để “hợp tác đầu tư” vào chính các dự án của Tân Hiệp Phát (mượn tiền Tân Hiệp Phát để đầu tư vào Tân Hiệp Phát) là không có căn cứ, chính họ cũng xác nhận có “dự định” cầm cố STK để vay tiền nên mới nộp STK cho VNCB xét duyệt cho vay.

       -Các bản fax Hợp đồng, giấy đề nghị vay vốn có chữ ký của họ từ Tân Hiệp Phát là bằng chứng. Nếu họ không vay tại sao họ không lấy lại STK mà đến nửa năm sau khi VNCB bị thanh tra đột xuất họ mới đòi lại STK?

       -Tại “Bản tường trình và kiến nghị” ngày 16-9-2014 gởi CQCSĐT-Bộ CA (BL 012001-012006) Ông Trần Quí Thanh khai: “ôNgoài118 STK đang cầm cố, còn có 6 STK trị giá 303,5tỷ đồng của 3 người là Ngô Bích Thùy Trang, Trần Hoài Phục và Nguyễn thị Mỹ Dung gửi tại VNCB ngày 19-12-12013 cũng chưa được VNCB giao trả. Cả 6 STK của 3 người này đều có kỳ hạn 12 tháng như các STK khác của chúng tôi gửi tại VNCB, lãi được VNCB trả hàng tháng! Sau đó, vì dự định cầm các STK này để vay vốn nên 3 người này đã đưa 6 STK cho VNCB để xét duyệt vay (nghĩa là đã có hồ sơ vay), nhưng sau khi cân nhắc thấy chưa có nhu cầu sử dụng vốn ngay nên 3 người này đã không tiếp tục tiến hành thủ tục vay và 6 STK này hiện vẫn do VNCB giữ hộ”.

Tại “Thư phản ánh về hoạt động của Đoàn công tác Ngân hàng Nhà nước ngày 18-8-2014 (BL 011946-011947). Trần Ngọc Bích khai: “Những người này từng chuyển 6 STK này cho VNCB giữ vì dự định cầm cố vay vốn để kinh doanh, nhưng sau đó kế hoạch kinh doanh có thay đổi họ quyết định chưa vay và vẫn để lại STK này cho VNCB giữ hộ”.

Trong khi đó 3 cá nhân đứng tên 6 STK khai như sau:

       -Tại Biên bản ghi lời khai ngày 24-9-2014 (BL 012972-012973) Trần Hoài Phục khai; “Sau khi mở STK cuối tháng 12/2013, tôi có dự định đầu tư kinh doanh nên dùng STK tại VNCB thế chấp để vay vốn. Tôi có nhờ chị Trần Ngọc Bích tư vấn để làm chủ tục vay nên đã đưa STK cho chị Bích giữ. Sau đó chị Bích có chuyển cho VNCB để họ làm thủ tục, tuy nhiên sau đó tôi lại không có nhu cầu vay vốn nên tôi không ký giấy tờ gì với VNCB. Sau đó chị Bích có tư vấn cho tôi để các giấy tờ và  STK tại VNCB, khi nào cần vay vốn thì làm thủ tục cho nhanh”.

       -Tại Biên bản ghi lời khai ngày 24-9-2014 (BL 012974-012975), Nguyễn Thị Mỹ Dung khai: “Việc gửi tiền tiết kiệm tại VNCB CNSG cụ thể như sau: ngày 19-12-2013, tôi Dung từ Công ty đi xuống VNCB Chi nhánh Sài Gòn, tại đây tôi được một người nam trẻ là nhân viên kế toán của Công ty Tân Hiệp Phát rút tiền từ VNCB khoản tiền 103tỷ đồng, số tiền đó tôi gửi thành 03 STK. Tất cả quá trình mượn tiền của chú Trần Quí Thanh đầu tư dự án, gửi tiền tiết kiệm vào VNCB, tôi Dung đều được chị Trần Ngọc Bích-Phó tổng Giám đốc Công ty Thân Hiệp Phát tư vấn cho tôi”. Khi được Điều tra viên hỏi: “chị Dung cho CQĐT biết hiện nay 03 STK của chị do ai quản lý?” Bà Dung đáp; “tôi Dung xin trả lời: hiện nay 03 STK của tôi được VNCB đang quản lý. Tôi sẽ có bản tường trình chi tiết, cụ thể gửi cơ quan điều tra”.

       -Tại Biên bản ghi lời khai ngày 03/10/2014 (BL 012976 – 012978), Bà Ngô Bích Thùy Trang khai như sau:

       Hỏi: Chị Trang cho CQĐT biết tại sao chị đi gửi tiền  tại VNCB lại đi cùng chị Trần Ngọc Bích?

       Đáp: Tôi Trang xin trả lời: chị Bích đi cùng tôi là vì: toàn bộ số tiền 110tỷ đồng tôi có gửi tại VNCB là do tôi mượn của Ông Trần Quí Thanh nên khi đi làm thủ tục tại Ngân hàng, chị Bích là con chú Thanh phải đi cùng tôi thì nhân viên của Cty Tân Hiệp Phát mới giao tiền cho tôi để tôi gửi vào ngân hàng. Tại VNCB Chi nhánh SG, nhân viên NH đã làm đầy đủ các thủ tục, tôi chỉ việc ký vào các mục có tên tôi Trang.

       Hỏi: Chị Trang cho CQĐT biết, hiện tại các giấy tờ 02 sổ tiết kiệm (bản gốc) chị có giữ không? Nếu không thì lý do tại sao?

       Đáp: Tôi Trang xin trả lời: hiện tại 02 STK (bản gốc) của tôi, tôi không lưu giữ bản gốc mà chỉ có bản photocopy. Lý do VNCB vì sau ngày 19-12-2013 khoảng vài ngày (tôi không nhớ rõ) tôi cùng chị Trần Ngọc Bích lên VNCB để làm thủ tục vay vốn do có nhu cầu làm ăn. Tôi đã trực tiếp cầm 02 STK (bản gốc) để đưa cho nhân viên NH 02 STK (bản gốc) cùng chứng minh nhân dân để họ làm thủ tục cho tôi vay vốn. Từ đó đến nay VNCB giữ 02 STK của tôi đến nay. Khoảng tháng 5/2014 do tôi không có như cầu vay vốn tôi đã đề nghị bên VNCB trả 02 STK đó cho tôi. Đến nay VNCB vẫn chưa trả.

Sự việc chỉ có một, nhưng lời khai của các đương sự mâu thuẫn nhau. Song có một sự thật đã được thống nhất, không thể chối cãi là: Tất cả nguồn tiền gửi  tiết kiệm là của ông Trần Quí Thanh là thật; việc gửi tiền tiết kiệm đều do bà Trần Ngọc Bích đạo diễn, các nhân viên Tân Hiệp Phát chỉ có việc ký tên vào chỗ có ghi tên mình là thật (không khác nào các nhân viên được giao làm giám đốc các Cty con của Thiên Thanh!); việc giao STK lại để VNCB lập hồ sơ vay là thật; việc VNCB vẫn còn giữ STK là có thật. Không vay tại sao không lấy lại STK mà phải đợi khi Thanh tra đột xuất 5 tháng sau mới phát hiện STK còn “gửi” ở VNCB và cũng không xuất trình được biên nhận “giữ hộ” STK của VNCB cấp? (Cũng giống như Trần Ngọc Bích khai số tiền 5.140 tỷ đồng trong TK tiền gửi của mình phải đợi đền gần một năm sau CQCSĐT Bộ CA báo mới biết bị chuyển đi mất!)

Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13-9-2004 của Thống đốc NHNN quy định:

       -Điều 15. Rút gốc và lãi tiền gửi tiết kiệm

         1/-Người gửi tiền thực hiện các thủ tục sau:

                  A/-Xuất trình thẻ tiết kiệm

       -Điều 25. Trách nhiệm của người gửi tiền

         1/-Thực hiện đúng các quy định tại quy chế này và các thỏa thuận đã cam kết với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.

       -Điều 26. Quyền của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm

         1/-Được quyền từ chối việc nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm nếu người gửi tiền không thực hiện đúng các quy định tại Quy chế này và các thỏa thuận đã cam kết với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.

Như vậy các Ông, Bà: Trần Hoài Phục, Nguyễn thị Mỹ Dung và Ngô Bích Thùy Trang không xuất trình được STK (bản gốc) theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 15 nên VNCB có quyền từ chối chi trả tiền gửi của 6 STK là phù hợp quy định khoản 1 Điều 26 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm. Số tiết kiệm là một loại giấy tờ có giá, do đó nếu các ông bà nói trên muốn lấy lại 6 STK thì phải xuất trình hợp đồng gửi giữ hay ít ra là “Biên nhận giữ hộ” 6 STK nói trên. Việc VNCB giữ lại 6 STK là phù hợp hồ sơ vay của 3 khách hàng (fax từ Tân Hiệp Phát), phù hợp với phương thức giao dịch trong suốt quá trình cho vay giữa Ông Trần Quí Thanh với ông Phạm Công Danh thông qua VNCB đã được thực hiện tương tự rất nhiều lần. Lần sau cùng này Nhóm Ông Trần Quí Thanh không giao lại hồ sơ gốc vay tiền, trùng hợp việc giữ lại 3 Hợp đồng gửi tiền trong vụ 5.190tỷ nói trên! Đặt 300 tỷ này dưới lăng kính của toàn bộ quá trình giao dịch vay nợ giữa  Phạm Công Danh với Ông Trần Quí Thanh thì mới đánh giá đúng bản chất của sự việc một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Phạm Công Danh thừa nhận vay của Trần Quý Thanh số tiền 300tỷ từ cầm cố 6 STK này là vay mượn cá nhân, mục đích để chi chăm sóc khách hàng, phục vụ cho VNCB duy trì thanh khoảnhoạt động. Tranh chấp 6 STK này là giao dịch dân sự giữa  Nhóm Trần Quí Thanh-Phạm Công Danh thông qua VNCB. Vì vậy, cần thiết tách ra giải quyết cùng vụ án dân sự đang được TAND Q. 3 thụ lý, để có điều kiện xác minh làm rõ hồ sơ do CB mới cung cấp và xác định nghĩa vụ dân sự của các bên liên quan.

   2/-Về việc mua lại Ngân hàng TMCP Đại Tín từ nhóm Bà Hứa Thị Phấn:

Trong thời gian NHTMCP Đại Tín đang được NHNN thanh tra và đặt dưới sự giám sát của Tổ Giám sát NHNN, mọi giao dịch trên 5 tỷ đồng đều phải thông qua Tổ Giám sát. Mặc dù không được ai ủy quyền, ngày 06-6-2012 Hoàng Văn Toàn (Chủ tịch HĐQT NH TMCP Đại Tín) lấy tư cách cá nhân ký với cá nhân Phạm Công Danh “Biên bản thỏa thuận việc chuyển giao 252.110.151 cổ phần NH TMCP Đại Tín”, nội dung Phạm Công Danh mua các tài sản:

       -252.110.151 Cổ phần tương ứng 84,036% vốn Điều lệ theo mệnh giá 10.000đ/cổ phần (2.521,101tỷ đồng)

       -4 Tài sản gồm: 24,56ha đất thuộc Quy hoạch khu thị Nhà Bè; 09 ha đất thuộc khu Đô thị Quận 2; 85tỷ đồng cổ phiếu Cty CP CK Đại Việt và 27 tỷ cổ phiếu Cty CP BH Hùng Vương.

       -Tổng trị giá 4.484,61tỷ đồng.

Ngày 09-10-2012 Hứa thị Phấn ký với Phạm Công Danh “HĐ chuyển giao quyền và nghĩa vụ dân sự liên quan tại NH TMCP Đại Tín” dưới sự chấp thuận của Hoàng Văn Toàn Chủ tịch HĐQT Đại Tín, nội dung không khác Biên bản thỏa thuận 06-6-2012, chỉ bổ sung thêm nhóm Phạm Công Danh phải chịu khoản tạm ứng của Công Đoàn NH Đại Tín 135tỷ đồng, tổng cộng 4.619,610tỷ đồng.

Cùng ngày 09-10-2012 Bà Phấn ký với Phạm Công Danh ‘Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần” có sự xác nhận của Hoàng văn Toàn CT HĐQT NH Đại Tín, Nhóm bà Phấn chuyển nhượng cho Nhóm Phạm Công Danh 252.110.151cổ phần-khoản 4 Điều 5 quy định “bên B (Phạm Công Danh) có quyền hủy bỏ HĐ này nếu bất kỳ cam đoan, bảo đảm nào của Bên A theo Điều này là không trung thực hoặc không chính xác”.

Chúng tôi cho rằng 2 “Hợp đồng chuyển giao quyền và nghĩa vụ dân sự liên quan tại NH TMCP Đại Tín” và “Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần” cùng ký ngày 09-10-2012 chỉ là hình thức thủ tục để đăng ký với NHNN VN. Bằng chứng là:

-Khoản 2 Điều 8 “HĐ chuyển giao nghĩa vụ…” ghi rõ “HĐ này là một phần không tách rời của các hợp đồng thỏa thuận đã được các bên ký kết trước đây và sẽ ký trong tương lai”.

-Sau khi ký 2 HĐ ngày 09-10-2012, ngày 01-12-2012 Đại diện bên bán Bà Ngô Kim Huệ, đại diện bên mua Phạm Công Danh, bên có QLNVLQ NH Đại Tín do Hoàng văn Toàn CT HĐQT đại diện đã ký “Phụ lục 5 Biên bản thỏa thuận chuyển giao 252.110.151 cổ phần NHTM CP Đại Tín đã ký ngày 06-6-2012”-nhằm điều chỉnh lại lộ trình thanh toán theo Biên bản thỏa thuận 06-6-2012. Tại Điều 2 ghi rõ: “Các bên cam kết các điều và nội dung đã ký trong Biên bản ngày 06-6-2012 và các phụ lục kèm theo không bị sửa đổi vẫn có giá trị thi hành”.

-Tại phiên tòa, ông Hoàng văn Toàn cũng xác nhận các bên thực hiện theo Biên bản thỏa thuận 06-6-2012. Tại các Bản tường trình của Ngô Kim Huệ 2-9-2014 (BL 000890), của Hứa thị Phấn ngày 29-9-2014 (BL 000892), của Hoàng văn Toàn ngày 26-9-2014 (BL 000897) đều xác nhận có ký các Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần nhưng không có việc chuyển tiền mua cổ phần cho nhóm Phú Mỹ vì thực hiện nghĩa vụ trả nợ của nhóm Phú Mỹ theo Biên bản thỏa thuận ngày 06-6-2012.

Thế nhưng, “Biên bản thỏa thuận ngày 06-6-2012” là vô hiệu toàn bộ và thực tế đến nay phía Bà Phấn và NH TMCP Đại Tín không thực hiện. Bằng chứng là:

- Biên bản thỏa thuận ngày 06-6-2012 được ký giữa 2 cá nhân Hoàng văn Toàn và Phạm Công Danh, không có tư cách đại diện cho ai, không có chứng nhận của NH TMCP Đại Tín, không được thông qua Tổ Giám sát NHNN VN, trong tình trạng Đại Tín đang bị giám sát. Tại phiên Tòa Ông Hoàng văn Toàn cũng xác nhận điều này.

- Chỉ có Phạm Công Danh thực hiện việc chuyển 3.600tỷ vào VNCB để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho nhóm Bà 6 Phấn, là điều kiện để VNCB và nhóm Bà Phấn giải chấp 2 TSTC là khu đất quận 2 và huyện Nhà Bè, lúc đó theo định giá của VNCB và Bà 6 Phấn là trên 6.000tỷ đồng. Với 2 tài sản này, Phạm Công Danh có thể chuyển nhượng hoặc thế chấp để vay khoản tiền tương ứng nhằm duy trì hoạt động và thanh khoản của VNCB. Thế nhưng đến nay các TSTC này vẫn không được xử lý trong khi VNCB đã nhận 3.600tỷ của Phạm Công Danh! Đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc làm sai của phạm Công Danh sau này để đối phó tình trạng đổ vỡ của NH Đại Tín. Thực tế theo hồ sơ thể hiện và xác nhận của Bà 6 Phấn tại phiên tòa: 2 tài sản tại quận 2 và huyện Nhà Bè thực tế chỉ là đất nông nghiệp do nhiều người đứng tên, chưa chuyển mục đích sử dụng đất và cũng không có quy hoạch dự án đầu tư nào được phê duyệt. Vì vậy thực tế không thể có giá trị trên 6.000tỷ đồng như Phạm Công Danh tin nhầm. Đó cũng là lý do họ không giải chấp! Rõ ràng giao dịch này còn có dấu hiệu lừa dối.

-Tại CV số 448/TTGSNH.M ngày 08-10-2013 của Cơ quan Thanh tra Giám sát Ngân hàng gởi Cục An ninh tài chính, tiền tệ và đầu tư (BL 018452) đã xác định: “Theo bản giải trình của Bà Hứa Thị Phấn ngày 08-3-2012 toàn bộ số tiền vay và nhận góp vốn đầu tư từ Ngân hàng TMCP Đại Tín (4.546,390tỷ đồng) Bà Hứa thị Phấn đã sử dụng như sau:

   +Mua đất ở huyện Nhà Bè và đất Quận 2 TP. HCM là 2.251,738tỷ đồng.

    +Trả lãi và hỗ trợ cho Ngân hàng 2.181,680tỷ đồng (phần hỗ trợ ngân hàng là để trả chênh lệch lãi suất huy động cao hơn trần lãi suất quy định của NHNN).

Công văn này chứng minh hai vấn đề:

*Bà Phấn tự khai mua đất Q.2 và Huyện Nhà Bè là 2.251tỷ đồng (thực tế không xác định đúng sai), nhưng đã nâng giá lên trên 6.000 tỷ đồng để thế chấp và lấy giá này để tạo niềm tin cho Phạm Công Danh mua cổ phần và tài sản.

*Rõ ràng việc trả chênh lệch lãi suất huy động cao hơn trần lãi suất quy định của NHNN đã diễn ra từ thời HĐQT Ngân hàng Đại Tín cũ, mà riêng bà Phấn đã phải bỏ ra 2.181,680 tỷ đồng để duy trì thanh khoản Ngân hàng Đại Tín. Số tiền này cuối cùng Phạm Công Danh phải gánh nợ! Đúng là “Trăm dâu đỗ đầu tằm”. Và đây cũng là cú sốc nặng nhất khi Phan Thành Mai tiếp quản Ngân hàng Đại Tín.

- Trong phần luận tội, đại diện VKSND TPHCM cũng đã đề nghị thu hồi 2 khoản tiền 851 tỷ đồng và 135 tỷ đồng trong số tiền 3.600 tỷ đồng mà Phạm Công Danh đã thanh toán theo Thỏa thuận chuyển nhượng cổ phần với Nhóm bà Hứa Thị Phấn, với lý do đây là số tiền do phạm tội mà có, đồng thời đề nghị khởi tố Nhóm bà Hứa Thị Phấn.

Từ các phân tích trên cho thấy đủ căn cứ để hủy bỏ toàn bộ giao dịch chuyển nhượng cổ phần giữa nhóm Hứa Thị Phấn với Nhóm Phạm Công Danh, bằng “Biên bản Thỏa thuận việc chuyển giao 252.110.151 cổ phần NHTMCP Đại Tín” ngày 06/6/2012 và các  Phụ lục, hợp đồng khác kèm theo, vì vô hiệu do vi phạm pháp luật, thực tế không thực hiện được và nguồn tiền thanh toán do phạm tội mà có.

Vì vậy, đề nghị CB phục hồi lại nợ của Nhóm bà Hứa Thị Phấn, hoàn trả lại Phạm Công Danh số tiền 3.600 tỷ đồng để khắc phục hậu quả.

 

Kính thưa Hội đồng xét xử,

Phạm Công Danh là một doanh nhân, sau khi thành công trong lĩnh vực kinh doanh VLXD, trang thiết bị nội thất, với mong muốn cháy bỏng thành lập một Ngân hàng Xây dựng nhằm góp phần tích cực hỗ trợ triển khai các trình xây dựng nhà ở quốc gia, thực hiện gói sản phẩm khép kín 4 nhà (Ngân hàng-Nhà đầu tư-Nhà thầu và Nhà cung ứng SXVLXD trang thiết bị nội thất), hình thành các Trung tâm Thương mại & Triển lãm Xây dựng, Bất động sản, Vật liệu xây dựng và Nội ngoại thất Quốc tế như các nước phát triển đã thực hiện. Minh chứng cho điều này, Bộ Xây dựng đã có công văn số 206/BXD-QLN ngày 17/02/2012 đề nghị NHNN nghiên cứu đề xuất về việc thành lập Ngân hàng xây dựng Việt Nam và công văn số 1844/BXD-VP ngày 22/10/2012 ủng hộ chủ trương hình thành các Trung tâm Thương mại & Triển lãm Xây dựng, Bất động sản, VLXD và Nội ngoại thất Quốc tế quy mô lớn tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng như đề xuất của Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh (thực tế hai Trung tâm này đang được triển khai).

Sau khi đề xuất thành lập Ngân hàng xây dựng không được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, “Ma đưa lối, quỹ dẫn đường”,  Phạm Công Danh đã gặp Hà Văn Thắm và sau đó là Bà Hứa Thị Phấn, để rồi “cứ nhằm những nẽo đoạn trường mà đi” dẫn đến hậu quả hôm nay! Là một người không am hiểu về ngành tài chính, ngân hàng, Phạm Công Danh tuyệt đối tin tưởng vào tài thao lược của Phan Thành Mai, tin tưởng vào “Đề án tái cơ cấu Ngân hàng TMCP Đại Tín” đã được NHNN hướng dẫn chỉnh sửa nhiều lần và phê duyệt chính thức, vẽ ra tương lai tốt đẹp sau tái cơ cấu; tin tưởng vào sự chỉ đạo, giám sát chặt chẽ của NHNN; tin tưởng vào sự hỗ trợ của các Ngân hàng bạn (BIDV, Agribank…); tin tưởng vào khối tài sản đang thế chấp tại NH Đại Tín (chủ yếu là 2 lô đất ở Q.2 và H. Nhà Bè) và các dự án lớn của Tập đoàn Thiên Thanh, nên đã chấp nhận nhảy lên lưng cọp!

Nhưng than ôi! Các dự án, đề án, phương án cho dù hay thiệt là hay cũng chỉ là trên lý thuyết, trên bàn phím! Thực tế nhiều khi lắm phũ phàng! Ngay chuyên gia Phan Thành Mai khi bước chân vào NH Đại Tín đã bị ngay cú sốc áp lực chi trả lãi ngoài, chi chăm sóc khách hàng và hàng loạt các khoản chi phí khác không thể hạch toán vào chi phí ngân hàng theo quy định, để cứu vãn sự đổ vỡ của NH Đại Tín do nhóm cổ đông cũ để lại. Thế nhưng tất cả các nguồn huy động dưới mọi hình thức đều như “muối bỏ biển”, “gió vào nhà trống”! Để rồi tất cả các nỗ lực của bản thân, của gia đình Phạm Công Danh, của Tập đoàn Tiên Thanh phải trả giá chẳng những bằng con số “không đồng” mà còn đánh đổi cả cuộc đời còn lại với mức hình phạt 30 năm tù theo như đại diện VKSNDTPHCM vừa đề nghị! Nguyên nhân không phải xuất phát từ Phạm Công Danh, nhưng toàn bộ hậu quả chỉ có Phạm Công Danh gánh chịu! Khác nào “Trăm dâu đỗ đầu tằm”!

 

Kính thưa Hội đồng xét xử,

Là một doanh nhân, không phải ai cũng tính toán, dự báo chính xác khi quyết định đầu tư. Nhưng sai lầm của họ trong hoạt động kinh doanh, thì họ phải trả giá bằng chính tài sản của mình. KLĐT, Cáo trạng cho thấy toàn bộ số tiền gọi là thiệt hại, thực chất trong đó chủ yếu là tài sản của Tập đoàn Thiên Thanh, nhằm cứu nguy cho NH Đại Tín và VNCB, Phạm Công Danh không chiếm hưởng cá nhân hoặc cho gia đình. Vì vậy, chúng tôi nghĩ Phạm Công Danh cần được đối xử theo Luật đầu tư, luật Doanh nghiệp, Luật các TCTD và cùng lắm là Luật phá sản, Phạm Công Danh đã trả giá bằng tài sản là quá đủ!

Mặt khác, trong vụ án này, có nhiều vụ việc đã được tách ra làm ảnh hương đền việc đánh giá khách quan, toàn diện vụ án, gây thiệt hại quyền lợi các bị cáo. Đặc biệt, trong phần luận tội đại diện VKSND TPHCM đã đề nghị khởi tố hàng loạt đối tượng liên quan, nhất là trường hợp Phạm thị Trang và nhóm Hứa Thị Phấn, mà chắc chắn kết quả điều tra sẽ làm thay đổi tính chất vụ án, kể cả nguyên nhân và hậu quả thiệt hại.

Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 179 Bộ Luật TTHS quy định, Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong trường hợp: Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung từ phiên tòa. Khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội mới hoặc có đồng phạm. Chúng tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhằm xác định sự thật vụ án một cách khách quan toàn diện và đầy đủ, không làm oan người vô tội và cũng không bỏ lọt  tội phạm.

Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc thấu đáo, từ đó đưa ra một phán quyết hết sức công minh, thấu tình đạt lý, nhằm làm cho 36 bị cáo có mặt hôm nay phải tâm phục, khẩu phục.

Trân trọng cám ơn Hội đồng xét xử,

Cám ơn hai vị đại diện VKSND TPHCM.

NGƯỜI BÀO CHỮA
LS NGUYỄN VĂN TRUNG

Tin tức khác


   Trang sau >>