NHẬN DIỆN NHỮNG ĐIỂM NGHẼN, KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ ĐỊNH HƯỚNG, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
(Phục vụ Tọa đàm khoa học: “Hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả trợ giúp pháp lý trong kỷ nguyên mới” – Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp, 17/10/2025)
Ts.Ls. Nguyễn Hữu Thế Trạch[1]
I. MỞ ĐẦU: Ý NGHĨA VÀ BỐI CẢNH CỦA VẤN ĐỀ
Trợ giúp pháp lý (TGPL) dướigóc nhìn bản chất pháp lý của khái niệm này là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo luậtđịnh, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.[2]
Đây là một dạng dịch vụ công, thuộc nhóm “dịch vụ pháp lý công ích” trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, tương tự như công chứng, giám định tư pháp, thừa phát lại...có đối tượng thụ hưởng cụ thể (người được TGPL) và chủ thể cung cấp (viên TGPL, luật sư, tư vấn viên, tổ chức ký hợp đồng TGPL).Mặc dù là dịch vụ, nhưng TGPL có tính phi lợi nhuận, phục vụ mục tiêu nhân đạo, công bằng và quyền con người — đây là điểm phân biệt với dịch vụ pháp lý thương mại.
Về hình thức tổ chức, TGPL được thực hiện thông qua hệ thống thiết chế chuyên trách.
Cóthể khẳng định TGPL là một trong những thiết chế mang tính nhân văn sâu sắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhằm bảo đảm mọi công dân đều có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận công lý và được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Luật TGPL năm 2017 đã đánh dấu một bước tiến lớn trong việc thể chế hóa quyền được TGPL được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013.
Tuy nhiên, quá trình tổ chức thi hànhcũng cho thấy hệ thống pháp luật về TGPL bộc lộ không ít điểm nghẽn về quy phạm, sự chồng chéo giữa các luật liên quan, và hạn chế trong cơ chế phối hợp thực thi, làm giảm hiệu quả hoạt động và khả năng tiếp cận dịch vụ TGPL của người dân.
Bài tham luận này nhằm:
1. Nhận diện có hệ thống những vướng mắc pháp lý hiện hành liên quan đến hoạt động TGPL;
2. Đề xuất định hướng, kiến nghị hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm TGPL thực sự trở thành công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền con người trong kỷ nguyên số.
II. NHẬN DIỆN CÁC NHÓM ĐIỂM NGHẼN, KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG TGPL
1. Nhóm quy định về thẩm quyền, phạm vi hoạt động và cơ chế phối hợp
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 xác lập khuôn khổ pháp lý cơ bản cho toàn bộ hoạt động TGPL, quy định về người được TGPL, tổ chức và người thực hiện TGPL, quyền và nghĩa vụ của các bên, cơ chế phối hợp và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan.[3]
Theo quy định tại Điều 10, Điều 11Luật Trợ giúp pháp lý, hệ thống thiết chế chuyên tráchthực hiện TGPL bao gồm:
(i) Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước – đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập;
(ii) Chi nhánh của Trung tâm – đơn vị phụ thuộc, được thành lập tại địa bàn khó khăn, nơi không có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL;
(iii) Tổ chức tham gia TGPL – bao gồm tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức tư vấn pháp luật ký hợp đồng hoặc đăng ký tham gia TGPL với Sở Tư pháp.
Như vậy, hệ thống tổ chức TGPL của Việt Nam hiện nay hình thành theo mô hình kết hợp giữa thiết chế Nhà nước và thiết chế xã hội hóa, trong đó Trung tâm TGPL nhà nước giữ vai trò nòng cốt, còn các tổ chức tham gia TGPL là lực lượng hỗ trợ nhằm mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ pháp lý của người dân.
Phạm vi hoạt độngvà lĩnh vực TGPLđược quy định như sau:
(i) Trung tâm TGPL nhà nướcthực hiện TGPL khi người được TGPL đang cư trú tại địa phương, vụ việc xảy ra tại địa phương, hoặc vụ việc được cơ quan có thẩm quyền về TGPL ở Trung ương yêu cầu.[4]
(ii) TGPL được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại.[5]
(iii) Hình thức TGPLbao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, và đại diện ngoài tố tụng.[6]
Có thể thấy quy định pháp luật đãxác định tương đối rõvề phạm vi hoạt động, lĩnh vực TGPL,[7] theo đó Trung tâm TGPL nhà nước có thẩm quyền thực hiện TGPL cho các vụ việc xảy ra hoặc người được TGPL cư trú trên địa bàn tỉnh, hoặc khi được cơ quan quản lý nhà nước về TGPL ở Trung ương yêu cầu.Cùng với đó, Tổ chức tham gia TGPL được phép thụ lý vụ việc trong phạm vi hợp đồng hoặc đăng ký với Sở Tư pháp vàChi nhánh của Trung tâm TGPL thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi địa bàn được giao, chịu sự quản lý trực tiếp của Trung tâm.
Mặc dù về nguyên tắc, phápluậtđã phân định rõ phạm vi hoạt độngvà lĩnh vực TGPL, tuynhiên thực tiễn áp dụng cho thấy vẫn tồn tại nguy cơ chồng chéo, thiếu ranh giới cho phép xác địnhthẩm quyền trongthực hiện dịch vụ TGPL.
Vídụ, điểm d khoản 3 Điều 30 của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017quy địnhTGPL phải “từ chối thụ lý khi vụ việc đang được tổ chức khác thực hiện”, tuy nhiên lại không có cơ chế xác định tổ chức nào được quyền thụ lý đầu tiên, cũng không có hệ thống thông tin thống nhất để kiểm tra tình trạng vụ việc.
Điều này khôngloại trừ nguy cơ trùng lặp nguồn lực hoặc bỏ sót vụ việc, nhất là ở địa bàn có nhiều tổ chức cùng tham gia TGPL.
Một ví dụ khác về sự thiếu ranh giới về nguồn lực khi tổ chức tham gia TGPL (kể cả tổ chức ký hợp đồng hoặc đăng ký) không đủ nguồn lực để thực hiện TGPL, họ phải chuyển yêu cầu đến Trung tâm TGPL nhà nước tại địa phương và thông báo cho người yêu cầu.[8]Điều này cho thấy Trung tâm TGPL nhà nước đóng vai trò là nơi tiếp nhận cuối cùng khi hệ thống xã hội hóa gặp khó khăn về nguồn lực, nhưng chưacóquy định chi tiết về cơ chế giám sát hay hỗ trợ ngay từ đầu để tránh việc chuyển giao này.
Một vấn đề khác có thể đề cập đến là cơ chế giám sát trong thực hiện dịch vụ TGPL theo đó Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư có trách nhiệm phối hợp với Bộ/Sở Tư pháp trong quản lý, giám sát việc thực hiện TGPL của tổ chức hành nghề luật sư, luật sư.[9]Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế phối hợp này chưa có hướng dẫn cụ thể về phạm vi, trình tự và tiêu chí đánh giá, dẫn đến nguy cơ chồng chéo hoặc khác biệt trong cách thức giám sát và xử lý vi phạm, đặc biệt khi cùng một hành vi của luật sư TGPL có thể bị xem xét đồng thời dưới cả góc độ hành chính (Bộ/Sở Tư pháp) và kỷ luật nghề nghiệp (Đoàn Luật sư).
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 tạiĐiều 41 đã xác lập trách nhiệm “phối hợp và tạo điều kiện” cho người được trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, quy định này mới dừng lại ở mức nguyên tắc, chưa được cụ thể hóa bằng cơ chế chế tài hoặc quy trình bắt buộc trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không thực hiện đầy đủ trách nhiệm phối hợp.
HayĐiều 36 của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 cho phép tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý kiến nghị bằng văn bản với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý, nhưng đây chỉ là biện pháp hành chính mang tính khuyến nghị, không có giá trị cưỡng chế thi hành. Cơ chế này chỉ giúp phản ánh và khắc phục phần nào sự thiếu phối hợp, song chưa thể giải quyết triệt để tình trạng vi phạm hoặc từ chối “tạo điều kiện” từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng.
Cóthể thấy, điểm nghẽn không nằm ở thiếu quy định củaLuật về trách nhiệmgiám sát, hỗ trợ, mà ở chỗ thiếu công cụ bảo đảm thực thi trách nhiệm phối hợp, thiếu thiết kế đồng bộ về cơ chế thực thi và phối hợp giữa các chủ thể. Việc hoàn thiện cần hướng tới thiết lập cơ chế phối hợp bắt buộc, cơ sở dữ liệu điện tử liên thông, và phân định rạch ròi thẩm quyền giám sát hành chính – nghề nghiệp, bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả của hệ thống TGPL.
2. Nhóm quy định về đối tượng được trợ giúp pháp lý
Điều 7Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 vàcác sửa đổi, bổ sung tại điểm a, điểm b khoản 6 Điều 177 Luật Tư pháp người chưa thành niên 2024, khoản 1, khoản 2 Điều 61 Luật Phòng, chống mua bán người 2024 đã thiết lập khuôn khổ pháp lý nền tảng nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho nhóm yếu thế trong xã hội, xác định rõ người được trợ giúp pháp lý.
Tiêuchí“có khó khăn về tài chính” quyđịnh tại khoản 7 Điều 7Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đãđược hướng dẫn bởi Điều 2Nghị định số 144/2017/NĐ-CP, theo đó điều kiện khó khăn về tài chính của người được trợ giúp pháp lý là người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật.
Hồ sơ chứng minhngười được TGPLđược hướng dẫn chi tiết tại Điều33 Thông tư số 08/2017/TT-BTP, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 03/2021/TT-BTP và Thông tư số 10/2023/TT-BTP. Cùngvớiđó, các chính sách tiền đề như Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg cũngcho thấy định hướng của Nhà nước trong việc ưu tiên nhóm yếu thế tiếp cận dịch vụ pháp lý công.
Dựa theo cấp độ điều kiện thụ hưởng quyền trợ giúp pháp lý, đối tượng TGPL có thể được phân định theo ba tầng tiêu chí:
(i) nhóm đối tượng được hưởng mặc nhiên theo Điều 7 Luật TGPL năm 2017;
(ii) nhóm đối tượng phải chứng minh “khó khăn về tài chính” theo khoản 7 Điều 7 Luật này và Điều 2 Nghị định 144/2017/NĐ-CP;
(iii) các chuẩn mực, hồ sơ chứng minh quyền được TGPL được quy định chi tiết tại Điều 33 Thông tư 08/2017/TT-BTP (đã được sửa đổi, bổ sung).
Sự phân định trên phản ánh cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận công lý theo nguyên tắc công bằng thực chất – ưu tiên nhóm yếu thế song vẫn duy trì điều kiện kiểm soát hành chính hợp lý.
Khoản 1 Điều 7 Luật TGPL năm 2017, được mở rộng thông qua Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024, đã khẳng định quyền được TGPL mặc nhiên của người có công, hộ nghèo, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng đặc biệt khó khăn và đặc biệt là người dưới 18 tuổi trong các vai trò tố tụng như bị tố giác, bị khởi tố, bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người bị áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và phạm nhân. Sự mở rộng này có ý nghĩa quan trọng, phù hợp với chuẩn mực quốc tế về bảo vệ trẻ vị thành niên trong tư pháp và thể hiện bước tiến lập pháp nhằm cụ thể hóa quyền tiếp cận công lý của nhóm dễ bị tổn thương.
Đối với nhóm phải chứng minh “khó khăn về tài chính”, bao gồm thân nhân liệt sĩ, người nhiễm chất độc da cam, người cao tuổi, người khuyết tật, nạn nhân bạo lực gia đình và người nhiễm HIV, pháp luật hiện hành quy định tiêu chí xác định dựa trên căn cứ hành chính: “hộ cận nghèo” hoặc “đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng”. Hồ sơ chứng minh phải kèm theo giấy tờ nhân thân và xác nhận tình trạng kinh tế, được hướng dẫn tại Điều 33 Thông tư 08/2017/TT-BTP(sửa đổi, bổ sungbởi Thông tư số 03/2021/TT-BTP). Tuy nhiên, cách tiếp cận này còn mang tính hình thức, vì có thể loại trừ những cá nhân thật sự khó khăn nhưng không đáp ứng đủ hai điều kiện hành chính nói trên – chẳng hạn người mất việc đột ngột, người gánh nặng y tế, hoặc rơi vào hoàn cảnh khẩn cấp. Về mặt kỹ thuật lập pháp, việc thu hẹp phạm vi xác định như vậy đã làm giảm ý nghĩa nhân văn và hiệu quả chính sách của TGPL.
Một bất cập khác nằm ở định nghĩa “khó khăn về tài chính” trong Nghị định 144/2017/NĐ-CP, vốn quá hẹp và mang tính “tiêuchí xác định theo hành chính”, không phản ánh đúng hoàn cảnh thực tế. Để bảo đảm quyền tiếp cận thực chất, cần kết hợp với “tiêu chí đánh giá theo khả năng tài chính thực tế”–tức đánh giá khả năng chi trả chi phí pháp lý trong vụ việc cụ thể, thay vì chỉ dựa vào tình trạng cận nghèo hoặc trợ cấp xã hội. Ngoài ra, yêu cầu chứng minh qua hồ sơ giấy hiện nay vẫn là rào cản lớn, đặc biệt với nhóm nạn nhân bạo lực gia đình hoặc người khuyết tật phải xuất trình nhiều loại giấy tờ khác nhau, làm tăng chi phí giao dịch và nguy cơ bỏ lỡ thời hạn TGPL.
Để khắc phục, cóthể cân nhắc các giải pháp như sau:
(i) Mở rộng phạm vi đối tượng quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 theo hướng mở và linh hoạt, nhằm bao quát các nhóm yếu thế mới phát sinh trong đời sống xã hội, phù hợp với xu hướng pháp luật quốc tế về tiếp cận công lý bình đẳng.
(ii) Xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về người thuộc diện được TGPL, bảo đảm liên thông với Cơ sở dữ liệu dân cư và Cơ sở dữ liệu an sinh xã hội để tự động hóa quy trình xác minh điều kiện, giảm gánh nặng thủ tục và tăng tốc độ tiếp cận dịch vụ TGPL
3. Nhóm quy định về quyền được TGPL và thủ tục tiếp cận
Theo Điều 8 Luật TGPL năm 2017, người được TGPL có các quyền cơ bản gồm:Được TGPL miễn phí, không phải trả bất kỳ lợi ích vật chất nào;tự mình hoặc thông qua người thân, cơ quan tố tụng hoặc tổ chức xã hội yêu cầu TGPL;được thông tin và hướng dẫn về quyền, thủ tục TGPL;được giữ bí mật nội dung vụ việc;lựa chọn tổ chức thực hiện TGPL, yêu cầu thay đổi trong trường hợp có xung đột lợi íchvà Thay đổi, rút yêu cầu, khiếu nại, tố cáo hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Các quyền này thể hiện định hướng của Luật TGPL trong việc trao quyền chủ động tiếp cận pháp lý cho người dân, tương thích với nguyên tắc “tự định đoạt” trong tố tụng dân sự và “bảo đảm quyền bào chữa” trong tố tụng hình sự.
Nghĩa vụ của người được TGPL đượcquy định tại Điều 9Luật TGPL 2017, gồm:Cung cấp giấy tờ chứng minh diện được TGPL;cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ và chịu trách nhiệm về tính xác thực;tôn trọng, hợp tác với tổ chức và người TGPL;không yêu cầu song song nhiều tổ chức thực hiện TGPLvà tuân thủ nội quy và pháp luật về TGPL.
Cách thiết kế này nhằm ngăn ngừa trùng lặp vụ việc, bảo đảm tính nghiêm túc của dịch vụ công. Tuy nhiên, khi đối chiếu với các quyền tố tụng cơ bản, quy định này có nguy cơ hành chính hóa quan hệ TGPL, vì người được TGPL bị xem như “đối tượng quản lý” hơn là “chủ thể thụ hưởng quyền hiến định”.
Thủ tục tiếp cận và thụ lý TGPđược quy định tạiChương V Luật TGPL2017, gồm ba giai đoạn:
(1) Tiếp nhận yêu cầu;
(2) Kiểm tra điều kiện;
(3) Thụ lý và cử người thực hiện.
Người yêu cầu có thể nộp hồ sơ trực tiếp, qua bưu chính hoặc điện tử. Hồ sơ gồm: đơn yêu cầu, giấy tờ chứng minh diện được TGPL và tài liệu liên quan.(Điều 29 Luật TGPL2017)
Việc thụ lý chỉ được thực hiện khi vụ việc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp. Cơ quan tiếp nhận phải kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ (Điều 30Luật TGPL2017). Nếu không đủ điều kiện hoặc vụ việc đang được tổ chức khác xử lý, việc thụ lý bị từ chối bằng văn bản. Đối với trường hợp khẩn cấp, Luật cho phép thụ lý ngay khi sắp hết thời hiệu khởi kiện hoặc sắp xét xử, dù hồ sơ chưa hoàn chỉnh.
Theo Điều 31Luật TGPL2017, tổ chức TGPL có trách nhiệm cử người thực hiện trong 03 ngày làm việc đối với vụ việc thông thường và 12 giờ đối với vụ việc khẩn cấp. Việc cử phải lập văn bản và gửi cho cơ quan tố tụng, người được TGPL.
Trong tố tụng hình sự, nguyên tắc suy đoán vô tội[10] và quyền không bị ép buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc tội chính mình[11]là nền tảng. Tuy nhiên, Luật TGPL yêu cầu người được TGPL “cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu, chứng cứ đó.”[12], tạo ra mâu thuẫn nội tại giữa cơ chế bảo vệ người bị buộc tội và nghĩa vụ hành chính hóa của TGPL.
Trên thực tế, người bị bắt thuộc hộ cận nghèo nhưng chưa có giấy chứng nhận phải chờ cơ quan tố tụng chuyển hồ sơ yêu cầu TGPL. Theo khoản4 Điều 30Luật TGPL 2017, vụ việc có thể “thụ lý ngay”, nhưng người được TGPL vẫn phải bổ sung giấy tờ — dẫn đến chậm trễ, ảnh hưởng quyền bào chữa kịp thời.Điều 75 Bộ LuậtTTHS 2015[13] cho phép luật sư tham gia tố tụng ngay khi có yêu cầu, trong khi đó, Luật TGPL lại yêu cầu phải có Quyết định cử người TGPL bằng văn bản (Mẫu TGPL-14) mới có giá trị pháp lý để tham gia. Cơ chế này khiến TGPL mang tính hành chính nặng hơn so với cơ chế luật sư bào chữa thông thường. Trong vụ việc khẩn cấp (như bị bắt quả tang), quy trình hành chính khiến TGPL mất đi tính kịp thời.Bên cạnh đó, điểmb khoản 2 Điều 76 BLTTHS quy định cơ quan tố tụng có trách nhiệm thông báo cho “Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý”.Tuy nhiên, Luật TGPL 2017 chỉ dừng ở mức “phối hợp, tạo điều kiện”, không có cơ chế bắt buộc hoặc định dạng thông tin thống nhất. Hệ quả là việc chậm thông báo hoặc không có kết nối dữ liệu giữa cơ quan tố tụng và Trung tâm TGPL dẫn đến tình trạng “trễ phản hồi”hoặc không có thông tin, ảnh hưởng quyền được trợ giúp của người bị bắt, bị cáo, hoặc người yếu thế.
Qua phân tích trên, có thể nhận diện bốn nhóm vấn đề chính phản ánh những hạn chế trong thực thi pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Thứ nhất, tình trạng “hành chính hóa”quyền con người thể hiện ở việc người được trợ giúp pháp lý phải chứng minh diện được hưởng bằng các giấy tờ hành chính và chờ quyết định cử chính thức. Cách tiếp cận này làm mất đi tính chất “dịch vụ pháp lý khẩn cấp” của trợ giúp pháp lý, khiến việc tiếp cận công lý bị chậm trễ.
Thứ hai, thiếu liên thông giữa cơ quan tố tụng và hệ thống trợ giúp pháp lý là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự trì hoãn trong việc cử người thực hiện trợ giúp. Việc không có hệ thống trao đổi dữ liệu bắt buộc giữa cơ quan tiến hành tố tụng và Trung tâm trợ giúp pháp lý khiến quá trình thông tin, xác nhận và phản hồi thường bị gián đoạn, đặc biệt ở cấp huyện, xã.
Thứ ba, sự rườm rà trong thủ tục hành chính cũng được thể hiện qua yêu cầu ban hành quyết định cử riêng biệt cho từng vụ việc, làm gia tăng khối lượng giấy tờ, tăng tải hành chính và giảm đáng kể tính linh hoạt của hệ thống.
Cuối cùng, mâu thuẫn trong quy định về nghĩa vụ chứng minh của người được trợ giúp pháp lý — cụ thể là yêu cầu “chịu trách nhiệm về tính xác thực của chứng cứ” — có nguy cơ gây áp lực tâm lý cho người bị buộc tội và mâu thuẫn với nguyên tắc suy đoán vô tội được bảo đảm trong tố tụng hình sự.
Hoạt động TGPL hiện được thiết kế chặt chẽ về thủ tục nhưng thiếu linh hoạt và liên thông với tố tụng, khiến dịch vụ pháp lý công – vốn hướng tới người yếu thế – bị hành chính hóa quá mức.
Để TGPL thực sự trở thành cầu nối giữa quyền con người và quyền tố tụng, cần:Giảm bớt các tầng thủ tục hành chính;đẩy mạnh số hóa quy trình thụ lý, cử ngườivà thiết lập cơ chế phối hợp bắt buộc và chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan tố tụng và tổ chức TGPL.
4. Nhóm quy định về điều kiện hoạt động, tiêu chuẩn và chế độ củaTGVPL
Hoạt động trợ giúp pháp lý chỉ có thể đạt hiệu quả khi được thực hiện bởi đội ngũ trợ giúp viên pháp lý (TGVPL) có năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức và sự ổn định nghề nghiệp. Tuy nhiên, chính sách hiện hành vẫn tồn tại nhiều bất cập, thể hiện ở mức thù lao thấp, thiếu cơ chế khuyến khích luật sư tư nhân tham gia, chưa có bảo hiểm nghề nghiệp và tiêu chuẩn năng lực cụ thể. Việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho TGVPLchưa được quy định bắt buộc, dẫn đến chênh lệch đáng kể về chất lượng thực thi giữa các địa phương.
Theo Điều 19 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và Điều 4 Thông tư 05/2022/TT-BTP, người được bổ nhiệm làm TGVPLphải là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật trở lên, đã được đào tạo hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư, có giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự trợ giúp pháp lý (hoặc thuộc trường hợp được miễn theo quy định), có sức khỏe và không trong thời gian bị xử lý kỷ luật. Theo Điều 20 Luật TGPL2017,thời gian tập sự trợ giúp pháp lý được xác định là 12 tháng. Việc miễn nhiệm và thu hồi thẻ được áp dụng khi người đó không còn đủ tiêu chuẩn, bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc hoặc cảnh cáo hai lần trở lên, không thực hiện vụ việc TGPL trong hai năm liên tục, hoặc bị cấm hành nghề theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền (Điều 22 Luật TGPL2017).
Về quyền và nghĩa vụ, theo Điều 18 Luật TGPL2017, TGVPL được bảo đảm độc lập nghề nghiệp, không bị can thiệp trái pháp luật, có quyền từ chối vụ việc khi có căn cứ xung đột lợi ích, đồng thời có nghĩa vụ bảo đảm chất lượng vụ việc, tuân thủ nguyên tắc TGPL, bảo mật thông tin, bồi thường khi có lỗi và tham gia các khóa bồi dưỡng bắt buộc. Các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm nhận hoặc đòi hỏi lợi ích vật chất từ người được TGPL, tiết lộ thông tin vụ việc và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người yếu thế(Điều 6 Luật TGPL2017).
Chế độ đãi ngộ của TGVPLđược xác lập tương ứng với chức danh nghề nghiệp chia thành ba hạng: Hạng I, II, III,[14]gắn với hệ số lương viên chức loại A3, A2, A1[15]và phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp 25%mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp vượt khung (nếu có)[16]. Ngoài ra, TGVPLđược hưởng thù lao và chi phí vụ việc theo hình thức tính theo thời gian hoặc khoán chi[17] và được cấp trang phục riêng theo tiêu chuẩn, niên hạn.[18]Tuy nhiên, mức thù lao này được tính dựa trên mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, dẫn đến chênh lệch đáng kể so với thị trường dịch vụ pháp lý và chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhân lực chất lượng cao.
Về cơ chế đánh giá và thăng hạng, theo Thông tư 09/2024/TT-BTP, tiêu chí thăng hạng hiện vẫn thiên về niên hạn và mức độ hoàn thành nhiệm vụ hành chính, chưa dựa vào kết quả thực chất của vụ việc hoặc tác động xã hội của hoạt động TGPL. Cùng với đó, việc TGVPLcác hạng I, II, III đều đồng thời đảm nhiệm công tác thẩm định chất lượng vụ việc[19]khiến cơ chế đánh giá nội bộ thiếu tính độc lập, khó tạo áp lực nâng chuẩn nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, chủ trương xã hội hóa TGPL tuy được ghi nhận trong Điều 11–13 Luật TGPL nhưng triển khai còn hạn chế. Mặc dù tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức tư vấn pháp luật được phép ký hợp đồng hoặc đăng ký tham gia TGPL, song các yêu cầu về nhân sự vẫn là rào cản lớn. Ví dụ: tổ chức tư vấn pháp luật phải có ít nhất một tư vấn viên pháp luật có hai năm kinh nghiệm hoặc một luật sư làm việc thường xuyên. Tiêu chuẩn này tuy nhằm bảo đảm chất lượng nhưng đồng thời làm giảm khả năng huy động nguồn lực ngoài nhà nước ở vùng sâu, vùng xa.
Từ thực tiễn trên, cần sửa đổi Nghị định 144/2017/NĐ-CP để quy định rõ cơ chế thù lao, đánh giá và đào tạo bắt buộc, đồng thời bổ sung bộ chỉ số chất lượng vụ việc (KPIs) làm căn cứ đánh giá, xếp hạng và phân bổ ngân sách. Cần sửa Luật Trợ giúp pháp lý để thiết lập cơ chế đánh giá độc lập, hóa chuẩn năng lực theo mô-đun chuyên sâu (tố tụng, bảo mật, kỹ năng làm việc với nhóm yếu thế) và cụ thể hóa nghĩa vụ bảo mật dữ liệu theo Luật Giao dịch điện tử 2023. Đồng thời, nên ban hành cơ chế đặt hàng dịch vụ TGPL công, gắn thù lao với kết quả, xây dựng quy trình đánh giá chéo liên tỉnh, số hóa hồ sơ vụ việc và công khai bản đồ năng lực Trung tâm TGPL nhằm thúc đẩy cạnh tranh minh bạch và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Nhìn tổng thể, hệ thống pháp luật đã quy định khá đầy đủ về điều kiện đầu vào của TGVPL, nhưng vẫn thiếu cơ chế bảo đảm chất lượng đầu ra. Hai điểm nghẽn chính là đánh giá nội bộ thiếu độc lập và chính sách thù lao – thăng hạng chưa phản ánh kết quả thực tế. Để trợ giúp pháp lý trở thành dịch vụ pháp lý công chuyên nghiệp, cần chuyển trọng tâm từ “đáp ứng điều kiện hành chính” sang “chứng minh bằng chất lượng vụ việc”, dựa trên ba trụ cột: đánh giá độc lập – thù lao theo hiệu quả – số hóa quản lý. Đây là nền tảng thiết yếu để bảo đảm quyền tiếp cận công lý và bảo vệ quyền con người trong thực tiễn.
Hoạt động TGPL chỉ có thể hiệu quả nếu được thực hiện bởi đội ngũ viên TGVPL chuyên nghiệp và ổn định. Tuy nhiên, chính sách hiện hành còn nhiều bất cập: mức thù lao thấp, thiếu cơ chế khuyến khích luật sư tư nhân tham gia, không có bảo hiểm nghề nghiệp hoặc tiêu chuẩn năng lực rõ ràng.
Việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho TGVPLchưa được quy định bắt buộc, dẫn đến chênh lệch về chất lượng giữa các địa phương.
Về kiến nghị, Bài viết đề xuất sửa đổi Nghị định 144/2017/NĐ-CP, quy định rõ chế độ thù lao, cơ chế đánh giá, đào tạo bắt buộc và tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp của TGVPLvà xây dựng cơ chế xã hội hóa hoạt động TGVPL, khuyến khích luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức chính trị – xã hội tham gia cung cấp dịch vụ TGPL dưới sự giám sát của Nhà nước.
Trợ giúp pháp lý là dịch vụ pháp lý công ích nhằm bảo đảm quyền con người trong tiếp cận công lý. Khung pháp luật hiện hành — với trục chính là Luật TGPL 2017 và các văn bản hướng dẫn — đã thiết lập tương đối đầy đủ về đối tượng thụ hưởng, tổ chức – người thực hiện, quyền, nghĩa vụ và thủ tục. Tuy vậy, quá trình thi hành bộc lộ bốn nút thắt chính: (i) nguy cơ hành chính hóa quyền được TGPL do gánh nặng giấy tờ và quyết định cử; (ii) thiếu liên thông dữ liệu giữa cơ quan tiến hành tố tụng và hệ thống TGPL, dẫn tới trễ hạn cử người; (iii) chồng chéo thụ lý do chưa có cơ chế phân luồng ban đầu và công cụ số theo dõi vụ việc; (iv) cơ chế nhân sự – thù lao – đánh giá của Trợ giúp viên pháp lý còn thiên về điều kiện hành chính, chưa phản ánh đầy đủ chất lượng đầu ra.
Để TGPL vận hành như một dịch vụ pháp lý công chuyên nghiệp, cần đồng thời: (1) chuẩn hóa quy trình “thụlýtrước – hoàn thiện hồsơ sau” đối với trường hợp cấp bách; (2) xây dựng kết nối, chia sẻ dữ liệu bắt buộc giữa cơ quan tố tụng và Trung tâm TGPL; (3) phân luồng thụ lý qua hệ thống điện tử để tránh trùng lặp, bỏ sót; (4) cải cách chính sách thù lao – thăng hạng – đánh giá độc lập của Trợ giúp viên pháp lý, gắn với chỉ số chất lượng vụ việc. Khi các giải pháp này được triển khai đồng bộ, TGPL sẽ thực sự trở thành cầu nối hiệu quả giữa quyền trên giấy tờ và quyền trong đời sống, bảo đảm mọi công dân, nhất là nhóm yếu thế, được tiếp cận công lý kịp thời, bình đẳng và nhân văn./.
Danh mục văn bản pháp luật sử dụng cho Bài viết:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (2022, ngày 9 tháng 11). Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Hà Nội: Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (2017, ngày 20 tháng 6). Luật Trợ giúp pháp lý (Luật số 11/2017/QH14). Hà Nội: Quốc hội.
3. Văn phòng Quốc hội. (2025). Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-VPQH về Luật Trợ giúp pháp lý. Hà Nội: Văn phòng Quốc hội.
4. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (2017, ngày 15 tháng 12). Nghị định số 144/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý. Hà Nội: Chính phủ.
5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (2020, ngày 15 tháng 7). Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Hà Nội: Chính phủ.
6. Thủ tướng Chính phủ. (2015, ngày 1 tháng 6). Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015–2025. Hà Nội: Văn phòng Chính phủ.
7. Thủ tướng Chính phủ. (2016, ngày 8 tháng 8). Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg quy định chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa giai đoạn 2016–2020. Hà Nội: Văn phòng Chính phủ.
8. Bộ Tư pháp. (2017, ngày 15 tháng 11). Thông tư số 08/2017/TT-BTP hướng dẫn thi hành Luật Trợ giúp pháp lý.Hà Nội: Bộ Tư pháp.
9. Bộ Tư pháp. (2018, ngày 28 tháng 8). Thông tư số 12/2018/TT-BTP hướng dẫn nghiệp vụ và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Hà Nội: Bộ Tư pháp.
10.Bộ Tư pháp. (2018, ngày 28 tháng 6). Thông tư số 09/2018/TT-BTP quy định tiêu chí xác định vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình. Hà Nội: Bộ Tư pháp.
11.Bộ Tư pháp. (2021, ngày 25 tháng 2). Thông tư số 02/2021/TT-BTP quy định định mức, thời gian và khoán chi vụ việc trợ giúp pháp lý. Hà Nội: Bộ Tư pháp.
12.Bộ Tư pháp. (2021, ngày 10 tháng 3). Thông tư số 03/2021/TT-BTP sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-BTP và Thông tư số 12/2018/TT-BTP. Hà Nội: Bộ Tư pháp.
13.Bộ Tư pháp. (2022, ngày 8 tháng 7). Thông tư số 05/2022/TT-BTP quy định mã số, tiêu chuẩn và xếp lương đối với chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp pháp lý. Hà Nội: Bộ Tư pháp.
14.Bộ Tư pháp. (2023, ngày 30 tháng 12). Thông tư số 10/2023/TT-BTP sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-BTP và Thông tư số 12/2018/TT-BTP. Hà Nội: Bộ Tư pháp.
15.Bộ Tư pháp. (2024, ngày 1 tháng 8). Thông tư số 09/2024/TT-BTP quy định tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp pháp lý. Hà Nội: Bộ
16.Bộ Tư pháp. (2023, ngày 30 tháng 3). Quyết định số 228/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý. Hà Nội: Bộ Tư pháp.
17.Bộ Tư pháp. (2023, ngày 15 tháng 11). Quyết định số 1017/QĐ-BTP về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính cấp thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Hà Nội: Bộ Tư pháp.
18.Bộ Tư pháp. (2024, ngày 12 tháng 3). Quyết định số 172/QĐ-BTP sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý. Hà Nội: Bộ Tư pháp.
[1]Ủy viên Ban chủ nhiệm, Trưởng Ban Trợ giúp pháp lý Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh
[2]Điều2 Luật Trợ giúp pháp lý 2017
[3] Điều 1 và Điều 2Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017
[4] Điều 26 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017
[5] Khoản1 Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017
[6]Khoản2Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017
[7] Cóthể đọc thêm tại các Điều 11, Điều 13Điều 30, Điều 31, Điều 34, Điều 38, Điều 39, Điều 41, Điều 42, Điều 43 và Điều 45 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017
[8] XemĐiều 35 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017
[9] XemĐiều 43 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017
[10]Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự 2015
[11]Điều 60, Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự 2015
[12]Điều9.2 Luật Trợ giúp tư pháp 2017
[13]Điều 75Bộ LuậtTTHS 2015 về Lựa chọn người bào chữaquy định:“1. Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn.
2. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, bị tạm giữ phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa.
Trong thời hạn 24 giờ kể khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị tạm giam không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa:.
[14]Điều 2 Thông tư 05/2022/TT-BTP
[15]Điều 9Thông tư 05/2022/TT-BTP
[16]Điều 11.2 Nghị định 144/2017/NĐ-CP
[17]Điều 13 Nghị định 144/2017/NĐ-CP; Thông tư 02/2021/TT-BTP
[18]Điều 11.3 Nghị định 144/2017/NĐ-CP
[19]Điều 5–7 Thông tư 05/2022/TT-BTP